Mỗi cá nhân đều
tin rằng mình là chủ nhân cuộc sống của mình, mỗi cá nhân đều thấy mình có
trách nhiệm đầy đủ về mọi hành vi của mình, lời nói và ý nghĩ hàng ngày, hàng
giờ, phút của mình. Mọi người đều tin sống thiện là sống hạnh phúc ngay trong
hiện tại, và cả sau này. Và sống ác là sống đau khổ và bất hạnh, ngay trong
hiện tại và cả về sau nữa. Do đó mà không ai bảo ai, mọi người đều lo làm điều
thiện, sống thiện, không những không làm hại ai, mà còn sẵn sàng giúp người.
Giúp người là giúp mình, hại người là hại mình.
Ðó là bài học thiết thực và đơn
giản của thuyết nghiệp. Với thuyết nghiệp được phổ biến và áp dụng rộng rãi,
đạo đức xã hội sẽ có bước cải thiện đáng kể, tệ mê tín dị đoan giảm bớt, số tiền
trước đây dành cho các chuyện cúng sao, giải oan, giải nghiệp, giải hạn sẽ được
đem bố thí cho kẻ nghèo đói, đem giúp cho quỹ xóa đói giảm nghèo. Thuyết nghiệp
của đạo Phật tạo ra một xã hội, trong đó, người người làm thiện, nói thiện và
nghĩ thiện. Các tệ nạn xã hội sẽ dần dần bị loại trừ. Mọi người sẽ được sống
yên ổn và hạnh phúc.
Ðịnh nghĩa về Nghiệp
Sách Phật định nghĩa nghiệp là hành động có dụng tâm. Ðạo Phật có
một quan niệm rộng về hành động. Hành động ở nơi thân, thường được gọi là việc làm,
và một việc làm có dụng tâm được gọi là thân nghiệp. Nhân ngày Tết, chúng ta tổ
chức phóng sanh, với lòng thương yêu loài vật, thì đó là một thân nghiệp lành.
Lời nói có dụng tâm thì gọi là khẩu nghiệp. Người bình thường hay nói:
"Lời nói rồi bay mất". Câu ấy không đúng.
Mọi lời nói ác, khi có đủ
nhân duyên và đúng thời gian đều sẽ đem lại quả báo xấu cho người nói. Lời nói
thiện lành cũng có tác dụng như vậy, theo hướng thiện lành. Thí dụ, tôi không
có tiền. Nhưng gặp người nghèo đói, bất hạnh, tôi có lời an ủi, thông cảm. Lời
an ủi đó, bắt nguồn từ tình thương chân thật là một nghiệp miệng lành, tương
lai sẽ đem lại cho tôi quả báo lành. Có dụng tâm thiện hay ác là ý nghiệp, mặc
dù ý nghĩ đó chưa thành lời nói hay hành động. Một người tuy cả ngày ngồi nhà,
nhưng đầu óc anh ta luôn bày mưu tính kế làm giàu bằng những thủ đoạn như buôn gian,
bán lận, đút lót cán bộ v.v... thì những mưu gian, kế độc của anh ta, tuy chưa
đem ra thi hành, nhưng cũng đều là những ý nghiệp xấu, tương lai sẽ mang lại
quả báo xấu cho anh ta.
Tuy nhiên, mọi hành động, dù là thân làm, miệng nói, hay ý suy
nghĩ, không phải là nghiệp tất cả, mà chỉ có những hành động có dụng tâm hay
dụng ý mới gọi là nghiệp. Những điều nói trên đây đưa tới hai kết luận quan
trọng: thứ nhất, chúng ta hàng giờ, hàng phút có thể tạo nghiệp mà không biết,
bởi vì, chỉ trừ khi chúng ta ngủ, còn thì chúng ta thường xuyên hoạt động, nói
năng và suy nghĩ; và mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm , cử chỉ, hành động của
chúng ta đều có thể tạo nghiệp, làm thay đổi cuộc sống của chúng ta hiện nay và
mai sau. Kết luận quan trọng thứ hai là một nghiệp thiện hay ác, lành hay dữ,
nặng hay nhẹ, đều do ở chỗ dụng tâm.
Dụng tâm thiện đưa tới quả báo thiện, dụng tâm ác đưa tới quả báo
đau khổ. Cũng như người trồng dưa thì sẽ có cây dưa và quả dưa để ăn. Không thể
trồng dưa mà lại mọc ra cây đậu. Tất nhiên, trồng dưa vẫn có thể không có dưa
ăn, nếu không biết trồng. Hơn nữa, dù cho có biết trồng thì cũng phải có thời
gian nhất định, cây dưa mới mọc và lớn lên và cho quả. Tạo nghiệp ác hay nghiệp
thiện cũng như vậy, nghĩa là phải có đủ nhân duyên và thời gian thích hợp thì
mới có quả báo thiện hay ác. Có người tuy hiện nay tạo ra nhiều nghiệp ác,
nhưng vẫn sống sung sướng trong hoàn cảnh giàu sang, là vì người ấy trong một
kiếp trước đã tạo ra nhiều nghiệp thiện, đến đời này vừa đúng thời gian lại có
điều kiện thích hợp cho nên được quả báo lành, được hưởng giàu sang phú quý.
Còn những nghiệp ác anh ta tạo ra trong đời sống hiện tại, thì chưa đến thời
gian chín muồi, lại chưa có nhân duyên thích hợp, cho nên quả báo ác chưa đến (chứ
không phải không đến!).
Hơn nữa, chúng ta cần phân biệt thân thọ nghiệp, tức là nghiệp mà
thân cảm thọ, với tâm thọ nghiệp, là nghiệp mà tâm cảm thọ. Một người đã làm
điều ác, thì tâm thọ nghiệp bao giờ cũng khổ, anh ta ray rứt không yên. Hay là,
trong khi làm điều ác, anh ta có thể thản nhiên, nhưng sau đó, nhất là về đêm,
anh ta sẽ hối hận, bức xúc, không ngủ được.
Ngược lại, có người hiện nay có nếp sống rất thiện lành, nhưng đời
sống lại nghèo khổ, cơ cực, lại thường gặp nhiều rủi ro, bất hạnh. Ðó là do
những nghiệp ác mà người ấy làm trong một đời sống trước, đến đời này đã chín muồi,
lại gặp nhân duyên đầy đủ, cho nên quả báo đau khổ hiện tiền, không thể tránh
được. Nhưng vì anh ta có duyên lành được nghe giảng Phật pháp, hiểu được thuyết
nghiệp, cho nên quyết tâm bỏ mọi điều ác, làm mọi điều lành. Người đó tuy sống
nghèo khổ, có thể gặp phải nhiều điều bất hạnh ở đời này, do nghiệp ác đã làm
trong đời trước nay đã chín muồi, nhưng do hiện tại anh thường xuyên làm điều
thiện, cho nên trong tâm vẫn được an vui... Nói tóm lại, nếu đứng về tâm thọ
nghiệp thì có thể nói là quả báo xảy ra tức thời, như bóng theo hình. Knh Pháp
Cú viết như sau:
"Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý ô nhiễm
Nói lên hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như xe chân vật kéo"
"Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng không rời hình".
Bài kệ trên còn cho thấy vai trò làm chủ của ý, tức là của dụng
tâm đối với thân nghiệp và khẩu nghiệp, tức là nghiệp nơi thân (thân nghiệp) và
nghiệp nơi lời nói (khẩu nghiệp). Cũng do vậy mà đạo Phật luôn luôn nhấn mạnh
trong thuyết nghiệp là dụng tâm, chế ngự tâm, làm sao cho tâm mình luôn luôn
nghĩ thiện, nghĩ lành, tâm luôn luôn được thanh tịnh, trong sáng thì tự khắc
mọi nghiệp nơi thân và lời nói cũng sẽ tự khắc trong sáng và thanh tịnh, đời
này và đời sau sẽ được an lạc, hạnh phúc.
Khi thuyết nghiệp của đạo Phật nhấn mạnh ý nghĩa quyết định của
dụng tâm, nó còn cảnh tỉnh chúng ta không nên xem thường những hành động nhỏ
nhặt. Vì những hành động nhỏ nhặt và bình thường đó có thể đem lại những hậu quả
rất lớn, tích cực hay tiêu cực, thiện hay ác. "Một đốm lửa có thể đốt cháy
cả cánh đồng", câu nói này trong dân gian rất đáng suy ngẫm, nếu chúng ta
muốn tiến bộ tâm linh và đến gần đích giác ngộ và giải thoát tối hậu.
Thế gian là vô thường, biến đổi trong từng giây phút. Ai có chú ý
quan sát đều có thể cảm nhận tánh vô thường đó. Yếu tố quyết định sự thay đổi chính
là hành vi của từng cá nhân con người và cộng đồng loài người. Và, nội dung
chính của hành vi là cái dụng tâm của chúng ta. Ðạo Phật cho rằng không có kẻ
thù nào hại mình hơn là cái tâm nghĩ bậy làm hại mình. Cũng không có người nào
giúp ích được mình hơn là cái tâm của mình nghĩ thiện, nghĩ lành. Vì vậy mà
kinh Phật khuyên phải luôn chánh niệm tỉnh giác. Kinh Pháp Cú viết như sau:
"Kẻ thù hại kẻ thù
Oan gia hại oan gia
Không bằng tâm hướng tà
Gây ác cho tự thân"
"Ðiều mẹ cha, bà con
Không có thể làm được
Tâm hướng chánh làm được
Làm được còn tốt hơn"
Trong đạo Phật, Bồ Tát tiêu biểu cho những người phát tâm rộng
lớn, thường được gọi là vô lượng tâm. Sách Phật thường nói tới Bốn tâm vô lượng
là từ, bi, hỷ, xả. Kinh Từ Bi định nghĩa lòng từ vô lượng như là lòng thương
của người mẹ đối với đứa con một của mình. Lòng bi vô lượng là lòng thông cảm
sâu sắc với nỗi khổ của tất cả mọi loài. Lòng hỷ vô lượng là lòng sẵn sàng chia
sẻ niềm vui với tất cả mọi loài. Và cuối cùng, lòng xả vô lượng là tâm của vị
Bồ Tát rộng lớn như hư không, như biển cả không còn bợn chút vị kỷ, không còn vướng
mắc dù là một chút hệ lụy thế tục, cho nên vị Bồ Tát có thể dũng mãnh hy sinh
để cứu độ tất cả chúng sanh ra khỏi biển khổ.
Vì có dụng tâm lớn như vậy, cho nên việc làm của vị Bồ Tát thật
khó mà đánh giá được theo bậc thang giá trị bình thường. Công đức của họ là vô lượng
vô biên. Vì họ làm bất cứ công việc gì, nhỏ cũng như lớn, với Bốn tâm vô lượng
như vậy, cho nên công đức của họ cũng là vô lượng. Chúng ta có thể có một khái
niệm về tâm vô lượng của Bồ Tát, qua bốn lời nguyện:
"Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành"
Một truyền thống rất đẹp và cũng rất có ích về mặt giáo dục nhân
cách của Tăng chúng Phật giáo trong các chùa, tu viện là làm bất cứ việc gì
cũng đề cao ý nghĩa biểu trưng của việc đó đối với sự nghiệp độ thoát chúng sanh,
tẩy sạch mọi phiền nào, thành tựu đạo giải thoát và giác ngộ vô thượng, cả
những việc hàng ngày như quét sân, bửa củi, phóng uế v.v..., họ cũng nghĩ tới
sự nghiệp độ sanh, nhiệm vụ giữ gìn tâm mình luôn luôn trong sạch, thanh tịnh
v.v...
Nghiệp của người sắp chết:
Một vấn đề phức tạp Theo thuyết nghiệp
của đạo Phật, tâm trạng của người sắp chết có ảnh hưởng rất lớn đến hướng tái
sanh của người đó ở kiếp sau. Nếu đó là tâm trạng thiện lành, vui vẻ, tỉnh táo
thì có thể đoan chắc người đó sẽ được tái sanh vào các cõi lành, cõi sung
sướng, tức là cõi người và cõi trời. Trái lại, nếu người đó bị hôn mê, vật vã,
la hét như là cảnh khổ đang hiện tiền, thì có thể đoan chắc người đó sẽ tái
sanh vào các cõi khổ, như địa ngục, quỷ đói và súc sanh. Cuộc sống của chúng ta
như thế nào, thì chúng ta sẽ có một cái chết và một đời sống kiếp sau tương
xứng với cuộc sống đó. Người sống với lòng tốt, có đạo đức, với tâm hồn luôn trong
sáng và bình thản, thì sẽ được hưởng một cái chết tỉnh táo, nhẹ nhàng, như lá
rụng mùa Thu, và một đời sống kiếp sau an lạc, sung sướng. Ðó là một quy luật
hết sức công bằng và hợp lý.
Vì vậy, cái được gọi là nghiệp gần chết (sách Hán gọi là cận tử
nghiệp) thực ra là kết quả hợp thành của tất cả các nghiệp mà con người đó đã tạo
ra trong cả một đời. Ðây không phải là một vấn đề lý thuyết, mà là một vấn đề
rất thực tiễn. Mọi người sắp chết đều nhớ lại, thấy lại mọi nghiệp thiện hay ác
mà mình đã tạo ra trong suốt cuộc đời, kể cả những ảnh hưởng tiêu cực hay tích
cực, mà những nghiệp đó đã gây ra cho những người khác. Nếu đa số những nghiệp
đó là thiện, thì tâm trạng của người sắp chết sẽ an vui. Anh ta sẽ chết một cách
thanh thản, đời sống kiếp sau của anh ta sẽ được sung sướng. Trái lại, nếu sống
nghiệp ác nhiều hơn sống nghiệp thiện, nhất là có những nghiệp ác lớn, nặng nề
thì anh ta sẽ cảm thấy đau khổ, hối hận, ray rứt trong tâm. Anh ta có một cái chết
bức xúc, vật vã, đời sống kiếp sau của anh ta sẽ bất hạnh. Thậm chí, anh ta có
thể bị mất thân phận làm người, sẽ phải đọa xuống những cõi sống cực khổ hơn
cõi người rất nhiều.
Tác dụng của việc tổ chức hộ
niệm cho người sắp chết
Hộ niệm là tụng niệm để gia hộ hay hỗ trợ. Vai trò quyết định vẫn
là nghiệp của người đương sự, người sắp chết. Nếu nghiệp của người sắp chết nặng
như tảng đá, thì dù có đông đảo chư Tăng hộ niệm, người đó cũng không thể tránh
phải đọa vào các cõi ác, cũng như tảng đá nặng không thể nổi lên được, mà phải
chìm. Trái lại, một người sống thiện, nghĩ thiện, nói và làm đều thiện lành, thì
dù có bao nhiêu kẻ thù lập đàn cầu đảo cho anh ta phải xuống địa ngục, anh ta
cũng vẫn được sanh vào cõi lành, cũng như một chiếc ghe chứa đầy bơ sữa, dù ai
muốn nhận chìm cũng không được.
Nói tóm lại, chúng ta phải chuẩn bị cái chết của chúng ta, ngay
khi chúng ta còn sống khỏe mạnh, còn đầy đủ tinh thần tỉnh táo. Chúng ta chuẩn
bị bằng cách ngày ngày tạo ra các nghiệp lành nơi ý nghĩ, lời nói và việc làm,
bằng cách tu tập tâm, khiến cho tâm bao giờ cũng trong sáng, thuần thiện. Sống
như vậy thì chết sẽ thanh thản, an vui, đời sống kiếp sau sẽ hạnh phúc, sung
sướng, không còn phải lo âu sợ hãi gì nữa.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]