|
Để giải
quyết câu hỏi này, chúng ta cần trả lời câu hỏi tại sao chúng ta trở thành Phật
tử? Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống
ra sao để an lạc hạnh phúc? Việc giữ giới có khó không? Làm sao để giữ giới tốt
mà không cảm thấy đó là những điều bắt buộc quá khó hay không thiết thực? Để
giải quyết những vấn đề này, chúng ta phải trở về với những điểm thiết thực cần
thảo luận để làm rõ vấn đề. Đó là mục đích tu Phật và động cơ tu hành.
Với vấn đề mục đích tu hành, chúng ta phải biết vì sao chúng ta
muốn tu tập. Có nhiều động cơ khác nhau dẫn người ta đến đạo phật, mỗi người có
một hoàn cảnh, một duyên nghiệp khác nhau khiến chúng ta tìm đến đạo phật. Đạo
là gì? Là con đường hay cách sống để có được một đời sống tốt đẹp, an toàn và
hạnh phúc hơn. Giác ngộ chính là thấy ra bản chất của cuộc sống vốn tiềm ẩn một
cái gì đó không ổn định và không đem đến sự thỏa mãn tuyệt đối. Sự không thỏa
mãn này tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, từ thô tới tế. Ở những nước kém
phát triển, điều này dễ nhận thấy, nạn nhân mãn, thiếu hụt lương thực, đói,
khát, nóng, lạnh, thiên tai, chết chóc, chiến tranh ở nhiều cấp độ khác nhau.
Đó là những tồn tại dễ thấy nhất của khổ.
Ở những nước đang phát triển, sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi
sự thay đổi, phải nâng cao trình độ nhận thức và nghiệp vụ không ngừng gây lên căng
thẳng, chán nản, bực bội, thất vọng, nghi ngờ và ganh tỵ, thậm chí phẫn uất;
chúng đều là những hình thức khác của khổ (dukka) mà người phải đối mặt hàng
ngày. Ở những nước đã phát triển, điều kiện vật chất tương đối hoàn hảo, chiến
tranh thiên tai cũng xảy ra đâu đó không gần họ, phải chăng khổ không còn? Lúc
này con người phải đối mặt với những vấn đề khác, là vấn đề bên trong, ngay
trên thân thể chúng ta hay trong tâm hồn mỗi người, trong các mối quan hệ giữa
những cá nhân trong gia đình và ngoài xã hội.
Không ai chọn được cha mẹ, quê hương, đất nước mà mình đã sinh
ra, đây là một sự thật. Không ai chọn được chiều cao, dáng vẻ, đường nét trên
thân thể và gương mặt mình. Ai cũng muốn mình xinh đẹp hơn, khỏe mạnh hơn,
thông minh hơn, đáng yêu hơn và khi đã có rồi, chúng ta muốn chúng tồn tại mãi
mãi, nhưng có ai không phải trải qua già, bệnh và chết? Đây là một sự thật mà
không ai tránh khỏi, cho dù người đó sống ở bất cứ đâu trên thế giới này.
Tình cảm của chúng ta luôn thay đổi, khiến ta phải phấp phỏm lo
sợ không biết những gì mà chúng ta đang có sẽ đi về đâu. Khi mất đi những gì mà
ta cho là “của ta”, chúng ta thất vọng, đau khổ, và thậm chí tuyệt vọng. Tình
cảm còn thay đổi nhanh hơn cả thời tiết. Như vậy sự không thỏa mãn tồn tại ở
khắp mọi nơi, dưới nhiều hình thức và cấp độ, tuy nhiên, nhận ra nó hay không,
và khi nhận ra nó rồi, chúng ta chấp nhận nó như một sự thật trong đời sống hay
tìm cách trốn tránh, che đậy cho nó bằng nhiều thứ khác để có được cảm giác an
toàn giả tạo?
Để giải quyết những vấn đề trên, chúng ta cần phải biết nguyên
nhân của chúng, điều giác ngộ cần thiết phải có để loại trừ nguyên nhân của
khổ. Có những vấn đề chúng ta có thể thay đổi được, hay tác động khiến nó phải
thay đổi. Nhưng cũng có những thứ chúng ta không thể thay đổi được, và điều tốt
nhất là chính chúng ta phải thay đổi để phù hợp hơn với hoàn cảnh sống 1.300
năm trước, Santideva, một nhà sư ở Ấn Độ đã thốt lên: “Làm sao ta có thể có đủ
thảm da để che trọn mặt đất. Nhưng chỉ với đôi dép này ta có thể bảo vệ đôi
chân mình khỏi trầy xước” (trên đường đời đầy chông gai). Đây chính là trí tuệ
biết chấp nhận và hóa giải những khúc mắc trong cuộc sống.
Khác với những tôn giáo tin vào Thượng đế, Đức phật nói rằng
không có một nguyên nhân đầu tiên và duy nhất cho mọi hiện tượng. Mỗi cái đều
là nhân cho một cái khác, và chính nó cũng chỉ là quả của một chuỗi các tiến trình
nhân - duyên khác nhau. Như vậy nhân cũng là quả và quả cũng là nhân. Sau đây
là một đoạn trích dẫn trong Trường Bộ Kinh, câu hỏi của Thiên chủ Sakka liên
quan đến vấn đề mà chúng ta đang thảo luận hôm nay. Cuộc đối thoại giữa Đức
Phật và vị thiên chủ diễn ra như sau:
Sau khi được phép, Thiên chủ Sakka hỏi Thế Tôn câu hỏi đầu tiên:
- Bạch Thế Tôn, do trói buộc gì (vì nguyên nhân nào), các loài Thiên, Nhân,
Asurà, NàGà, Càn Thát Bà. Đây là cách phân loại chúng sinh trong cõi dục giới:
loài người và trời (chư thiên) thuộc vè cảnh vui; loài Asura (A Tu la) là một
dạng chúng sinh có thần lực hơn con người nhưng lại không tỏa sáng như chư
thiên vì tâm họ thường bị sân hận chi phối; loài Nâga thuộc về súc sinh dạng
lớn (như rồng, rắn, thần, voi…) và có chút ít thần lực; loài Ganthabba (Càn
thát bà) cũng thuộc về dạng quỷ thần (như Asura và Nâga) biết bay và hưởng thụ
mùi hương như thức ăn. Và tất cả những loài khác, dân chúng ao ước: “Không thù
hận, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống với nhau
không hận thù”. Thế mà với hận thù, với đả thương, với thù nghịch và với ác ý,
họ lại sống với nhau trong hận thù?
Và Thế Tôn trả lời câu hỏi ấy như sau:
- Do đố (ganh tỵ) và tham (keo bẩn), các loài Thiên, Nhân,
Asurà, Nàgà, Càn Thát Bà và tất cả những loài khác, dân chúng ao ước: “Không
hận thù, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống với nhau
không thù hận”. Thế mà với hận thù, với đả thương, với thù nghịch, với ác ý, họ
sống với nhau trong hận thù.
Đó là hình thức Thế Tôn trả lời cho câu hỏi Thiên chủ Sakka.
Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:
- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiên
Thệ! Khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ của con diệt tận, do dự của con
tiêu tan.
Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ câu trả lời Thế Tôn,
liền hỏi câu hỏi tiếp:
- Bạch Thế Tôn, đố kỵ, tham lam, do nhân duyên gì, do tập khởi gì, cái gì khiến
chúng sinh khởi, cái gì khiến chúng hiện hữu, cái gì có thì đố kỵ, tham lam có?
Cái gì không có, thì tật đố kỵ, tham lam không có?
- Này Thiên chủ, đố kỵ và tham lam do ưa ghét làm nhân duyên, do
ưa ghét làm tập khởi, ưa ghét làm chúng sinh khởi, ưa ghét khiến chúng hiện
hữu, ưa ghét có thì đố kị, tham lam có; ưa ghét không có thì đố kị, tham lam
không có.
- Bạch Thế Tôn, ưa ghét do nhân duyên gì, do tập khởi gì? Cái gì
khiến chúng sinh khởi, cái gì khiến chúng hiện hữu, cái gì có thì ưa ghét có?
Cái gì không có thì ưa ghét không có?
- Này Thiên chủ, ưa ghét do tham cầu làm nhân duyên, do tham cầu
làm tập khởi, tham cầu khiến chúng sinh khởi, tham cầu khiến chúng hiện hữu. Tham
cầu có thì ưa ghét có; tham cầu không có thì ưa ghét không có.
- Bạch Thế Tôn, nhưng tham cầu do nhân duyên gì, do tập khởi gì?
Cái gì khiến tham cầu sinh khởi, cái gì khiến tham cầu hiện hữu? Cái gì có thì tham
cầu có? Cái gì không có thì tham cầu không có?
- Này Thiên chủ, tham cầu do suy nghĩ làm nhân duyên, do suy
nghĩ làm tập khởi; suy nghĩ khiến tham cầu hiện hữu. Suy nghĩ có thì tham cầu
có; suy nghĩ không có thì tham cầu không có.
- Bạch thế Tôn, suy nghĩ lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập
khởi? Cái gì khiến suy nghĩ sinh khởi, cái gì khiến suy nghĩ hiện hữu? Cái gì
có thì suy nghĩ có? Cái gì không có thì suy nghĩ không có?
- Này Thiên chủ, suy nghĩ lấy các loại vọng tưởng hý luận làm
nhân duyên, lấy các loại vọng tưởng hý luận làm tập khởi. Các loại vọng tưởng
hý luận khiến suy nghĩ sinh khởi, các loại vọng tưởng hý luận khiến suy nghĩ
hiện hữu. Do các loại vọng tưởng hý luận có thì suy nghĩ có. Do các loại vọng
tưởng hý luận không có thì suy nghĩ không có”. (DN.21)
Cuộc đối thoại này cho thấy Thiên chủ là một vị trời rất có trí
tuệ, luôn muốn tìm hiểu vấn đề một cách rốt ráo. Vì như một vị lãnh đạo các chư
thiên (năng lực thiện chủ đạo trong mỗi người hay trong vũ trụ), vị thiên chủ
này muốn giải quyết vấn đề một cách có ý thức và có hệ thống, đúng phương pháp
dựa trên sự hiểu biết đúng đắn về bản chất của vấn đề và các mối quan liên hệ
tương quan tương tức. Đây là phương pháp trực diện để giải quyết vấn đề rất
Phật giáo: quan tâm một cách sáng suốt và khách quan nhìn nhận để giải quyết sự
việc. Tuy nhiên, sự quan tâm đúng đắn này phải có nền tảng từ tình yêu thương
không phân biệt và không thiên vị. Điều này là điểm khác biệt giữa sự tìm tòi,
nghiên cứu và thử nghiệm thuộc về tâm linh và tôn giáo với khoa học và kỹ
thuật. Đoạn kinh trên cũng cho thấy khái niệm về thiên thần và Thiên chủ (không
phải Thượng Đế như quan niệm của người Thiên chúa hay người Hồi giáo, Hindu
giáo) trong đạo phật nhưng rất khác với tôn giáo khác.
Câu hỏi của Thiên chủ Sakka phản ánh một vấn đề rất thực tế
trong thế giới này: tại sao mọi người muốn hòa bình, yên ổn, hạnh phúc nhưng họ
lại tự làm khổ mình và làm khổ người bằng cách gây bất đồng, bất ổn và chiến tranh?
Câu trả lời của Đức Phật chỉ ra nguyên nhân là các phiền não nghiệp chướng của
chúng sinh bắt đầu từ sự ích kỷ và thủ chấp. Chúng ta hãy trở lại với chuỗi
nhân duyên tạo ra cái thế giới bất ổn này, nó như sau: ganh tỵ- ích kỷ có
nguyên nhân trong ưa-ghét, cái này lại bắt nguồn từ tham cầu, và tham cầu lại
đến từ suy nghĩ có nền tảng là vọng tưởng hý luận. Vọng tưởng hý luận chính là
nhận thức sai lầm; khi các dữ liệu là không chính xác, suy nghĩ dựa trên những
dữ liệu đó là tà tư duy (micchâ sakappa = vitakka) và các tà tư duy đó dẫn đến
ưa-ghét dựa trên sự suy xét cảm tính chủ quan của cá nhân, và nó tạo ra đố kỵ
và ích kỷ điều dẫn đến hiềm thù, xung đột và chiến tranh. Khi tham cầu được
thỏa mãn, con người sinh tham (ưa thích), và từ tham này khiến họ ích kỷ muốn những
gì vừa đạt được chỉ thuộc về mình, không muốn chia sẻ; khi tham cầu bị từ chối,
người ta nổi sân hận (ghét) và ganh tỵ đối với những ai đang có cái mà mình
mong muốn. Và như vậy, trong vô minh, chúng sinh mong cầu hạnh phúc và an ổn
nhưng lại tự tạo ra đau khổ và bất ổn trong xã hội do chúng thiếu hiểu biết về
chính mình và không biết rằng những gì đang diễn ra là mang tính nhân quả,
không có một Thượng đế hay Sa tăng nào sau đó. Câu trả lời của Đức Phật đưa
chúng ta về với sự thực đang diễn ra xung quanh chúng ta, về bản chất của con
người nói riêng và về các hiện tượng của đời sống nói chung trong mối tương
quan nhân quả.
Trong đời sống hàng ngày cũng vậy, mọi sự việc xảy ra đều có
nguyên nhân và tạo duyên cho một hay nhiều sự việc khác. Sinh ra ở đâu và như
thế nào cũng có nguyên nhân và duyên nghiệp của nó. Xinh đẹp hay xấu xí, khỏe mạnh
hay yếu đuối, thông minh hay tầm thường, thành đạt hay không thành đạt… tất cả
đều có những nguyên nhân sâu xa mà Phật giáo gọi là Nghiệp (kamma) và quả của
nghiệp (kamma-vipâka).
Vậy, nghiệp là gì? Theo nghĩa đen, nghiệp chính là hành động.
Hành động hay biểu hiện qua 3 cửa là: thân, khẩu và ý. Về phương diện đạo đức,
nghiệp lại được chia ra 3 loại: thiện, bất thiện và trung tính, nghĩa là không
thiện cũng không ác. Về phương diện triết học, nghiệp chính là ý chí (cetanâ)
hay động lực (sa#cetanâ) sau mỗi hành động. Trong mối quan hệ tương tác nhân
quả trong thời gian, nghiệp lại được đề cập đến như hiện nghiệp, quá khứ và quả
báo trong tương lai. Nghiệp cũng được nói đến dưới một số thuật ngữ khác như cận
tử nghiệp, thường nghiệp, đoạn nghiệp, chướng nghiệp…Đây là một vấn đề khá rộng
lớn, mà bài viết này không đi sâu vào giải thích tất cả các khía cạnh mang tính
triết lý của chữ nghiệp. Tuy nhiên, theo sự phân tích tâm lý ở đoạn kinh trên,
chúng ta cũng đã có được một cái nhìn khá thực tế về vấn đề nghiệp quả.
Hành động như thế nào thì gọi là thiện, và hành động như thế nào
thì gọi là ác, điều này liên quan đến quan niệm thiện - ác vốn được hình thành
và tồn tại cùng với sự hình thành và tồn tại của xã hội loài người. Quan niệm
thiện - ác vốn thay đổi theo thời gian cũng có những điểm dị biệt tùy theo xã
hội, cộng đồng hay tôn giáo. Trong đạo Phật, thực hành 5 giới cấm là tránh làm
ác, tu Thập thiện làm lành, vun bồi phước đức, như bố thí, giữ giới, tu thiền.
Đoạn đối thoại sau đây giữa Đức Phật và một nhóm Bà la môn ở Ấn
Độ vào hơn 2.500 năm trước được ghi lại trong Trung Bộ Kinh nói về nghiệp trong
ý nghĩa phổ biến nhất của nghiệp. Câu hỏi liên quan đến một vấn đề mà các Bà la
môn trưởng giả đang quan tâm về sự sai biệt của các chúng sinh trong thế giới.
Và câu trả lời của Đức Phật là những lời giải thích dùng khái niệm nghiệp -
quả, vốn là một niềm tin rất thịnh hành ở Ấn Độ, nhưng cách phân tích của Đức
Phật cho thấy một sự lý giải mới, khác với niềm tin thông thường của đại chúng.
- Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số hữu
tình sau khi thân hoại mạng chung, phải sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục? Này tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình sau
khi thân hoại mạng chung được sinh vào nơi tốt đẹp, Thiên giới, đời này?
- Này các Gia chủ, do nhân hành phi pháp, hành phi pháp chính
đạo, này các Gia chủ, mà như vậy, có một số loại hữu tình, sau khi thân mạng chung
phải sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do nhân hành đúng pháp, hành
đúng chính đạo, này các Gia chủ, mà như vậy, có một số loài hữu tình sau khi
thân hoại mạng chung được sinh vào thiện thú, thiên giới, đời này.
- Chúng con không thể hiểu đầy đủ những gì Tôn giả Gotama thuyết
một cách vắn tắt nếu không được giải thích rộng rãi. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama
thuyết pháp cho chúng con để chúng con có thể hiểu đầy đủ những gì Tôn giả
Gotama thuyết một cách vắn tắt!
- Như vậy các Gia chủ, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, Tôn giả.
Thế Tôn nói như sau:
- Này các Gia chủ, có ba loại thân hành phi pháp, phi chính đạo,
có bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chính đạo, có ba loại ý hành phi pháp, phi chính
đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người sát sinh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm
chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loài hữu tình. Người này
lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác hoặc tại thôn làng hoặc tại
rừng núi không cho người ấy, người ấy lấy trộm tài vật ấy. Người ấy sống tà
hạnh đối với các dục lạc, giao cấu với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có anh
che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc
bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa. Như vậy, này các
Gia chủ, là ba loại thân hành phi pháp, phi chính đạo (10 ác nghiệp qua 3 thân,
4 qua khẩu và 3 qua ý hành).
Này các Gia chủ, có ba loại thân hành đúng pháp, đúng chính đạo,
có bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chính đạo? Này các Gia chủ, thế nào là ba
loại thân hành đúng pháp, đúng thánh đạo? Ở đây, này các Gia chủ có người từ bỏ
sát sinh, tránh xa sát sinh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống
thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sinh và loài hữu tình; từ bỏ lấy của
không cho, tránh xa lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc
tại thôn làng, hoặc tại rừng núi không cho người ấy, người ấy không lấy trộm;
từ bỏ sống theo tà hạnh đối với các dục, không giao cấu với các hạng nữ nhân có
mẹ che chở, có cha che chở… Như vậy, này các Gia chủ, là ba loại thân hành đúng
pháp, đúng chính đạo.
Và này các Gia chủ, thế nào là bốn loại khẩu hành đúng pháp,
đúng chính đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người từ bỏ vọng ngữ, tránh xa vọng
ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến
giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi được dẫn ra làm chứng và được hỏi:
“Này người kia, hãy nói những gì Ông biết”, nếu biết, người ấy nói: “Tôi biết”;
nếu không biết người ấy nói: “Tôi không biết”; hay nếu không thấy, người ấy
nói: “Tôi không thấy”; nếu thấy người ấy nói: “Tôi thấy”. Như vậy, lời nói của
người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân vị kỷ, hoặc vì
nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì. Từ bỏ nói hai
lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, nghe điều gì ở chỗ kia
không đi nói với những người này để sinh chia rẽ ở những người kia; như vậy,
người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hợp, ưa thích
hòa hợp, vui thích hòa hợp, thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.
Từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, những lời nói nhu hòa, đẹp tai,
dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều
người, người ấy nói những lời như vậy. Từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời
nói phù phiếm, nói đúng thời, người ấy nói những lời chân thật, nói những lời
có ý nghĩa, nói những lời về Chính pháp, nói những lời về Luật, nói những lời
đáng gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có
ích lợi. Như vậy, này các Gia chủ, có bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chính
đạo.
Và này các Gia chủ, thế nào là ba loại ý hành đúng pháp, đúng
chính đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người không có tham ái, không tham lam
tài vật của kẻ khác, không nghĩ rằng: “Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác
trở thành của mình!” Lại có người không có tâm sân, không có khởi lên hại ý,
hại niệm, nhưng nghĩ rằng: “Mong rằng những loài hữu tình này sống không thù
hận, không bị oán thù, không nhiễu loạn, được an lạc, lo nghĩ tự thân!” Người
ấy có chính kiến, không có tưởng điên đảo, nghĩ rằng: “Có bố thí, có kết quả
của bố thí, có tế lễ, có cúng dường, các hành vi thiện ác có kết quả dị thục,
có đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có các loại hóa sinh, trong đời, có các
Sa-môn, Bà-la-môn chân chính hành trì, chân chính thành tựu, sau khi tự tri, tự
chứng lại tuyên bố cho đời này và cho đời sau”. Như vậy, này các Gia chủ, có ba
loại ý hành đúng pháp, đúng chính đạo. Như vậy, do nhân hành đúng pháp, hành đúng
chính đạo, này các Gia chủ, ở đây, một sồ loài hữu tình sau khi thân hoại mạng
chung được sinh vào nơi tốt đẹp, nhân gian hay thiên giới.
Này các Gia chủ, nếu một vi hành đúng pháp, đúng chính đạo, mong
ước: “Ôi, mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sinh vào đại phú gia
Bà-la-môn… đại phú gia, vương tộc Sát - đế - lị” Sự kiện nảy xảy ra, vị ấy sau
khi thân hoại mạng chung, được sinh vào đại phú gia, vương tộc Sát – đế –lị. Vì
sao vậy? Vì vị ấy, là vị hành đúng pháp, đúng chính đạo.
Này các Gia chủ, nếu một vi hành đúng pháp, đúng chính đạo, mong
ước: “Ôi, mong rằng sau khi than hoại mạng chung, tôi được sinh vào đại phú gia
Bà-la-môn…đại phú gia gia chủ!” Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại
mạng chung, được sinh vào đại phú gia gia chủ. Vì sao vậy? Vì vi ấy là vị hành
đúng pháp, đúng chính đạo. Này các Gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng
chính đạo, mong ước: “Ôi mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sinh
thân hữu với chư thiên Tứ thiên vương, với chư thiên cõi trời Ba mươi ba, với
chư thiên Dạ ma, với chư thiên Đâu-suất-đà, với chư thiên Hóa lạc, với chư
thiên Tha hóa tự tại, với chư thiên Phạm chúng, với chư thiên Quang thiên, với
chư thiên Thiểu Quang thiên, với chư thiên Vô lượng quang thiên, với chư thiên
Quang âm thiên, với chư thiên Tịnh thiên, với chư thiên Thiểu tịnh thinh, với
chư thiên Vô lượng tịnh thiên, với chư thiên Biến tịnh thiên, với chư thiên Quảng
quả thiên, với chư thiên Vô phiền thiên, với chư thiên Vô nhiệt thiên, với chư
thiên Thiện hiện thiên, vớ chư thiện Thiện kiến thiên, với chư thiên Sắc cứu
kính thiên, với chư thiên Hư không vô biên xứ thiên với chư thiên Thức vô biên
xứ thiên, với chư thiên Vô sở hữu xứ thiên, với chư thiên Phi tưởng Phi phi
tưởng xứ thiên!” Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung được
sinh thân hữu với chư thiên phi thưởng Phi phi tưởng xứ thiên. Vì sao vậy? Vì
vị ấy là vị hành đúng pháp, đúng chính đạo.
Này các Gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chính đạo, mong
ước: “Ôi, mong rằng, với sự đoạn từ các lậu hoặc, với thắng trí, ta chứng ngộ, chứng
đạt và an tú ngay trong hiện taị tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu!” Sự
kiện này xảy ra, vị ấy với sự đoạn trừ các lậu hoặc, với thắng trí, chứng ngộ,
chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu.
Vì sao vậy? Vì vị ấy hành đúng pháp, đúng chính đạo.
Khi nhe nói vậy, các gia chủ ở Bà-la-môn ở Sa-la bạch Thế Tôn:
“Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người
dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ
đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt
có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chính pháp đã được Thế tôn dùng nhiều phương tiện để
trình bày. Và nay chúng con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y chúng
Tỷ- kheo Tăng, mogn Tôn giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử, từ nay trở đi cho
đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng!” (Saleyyasutta M41)
Như vậy, tu là chuyển nghiệp hay sửa đổi thái độ và cách hành xử
trong cuộc sống.
Sự sửa đổi này bắt đầu từ chính tín (niềm tin đúng đắn) và chính kiến (hiểu
biết về nhân - quả thiện ác để rồi bỏ ác làm lành, tu tâm sửa tánh). Như vậy ai
cũng phải tu thì mới có hạnh phúc a lạc ngay tỏng đời này, và cũng tạo duyên
cho một sự tái sinh tốt đẹp cho đời sau.
Việc tu thường bắt đắu từ một sự nhận thức hay kinh nghiệm nào
đó khiến người ta phải thay đổi cách sống và cách nhìn nhận về con nguời và
cuộc đời. Sự kiện nàycó thể đến từ một cú sốc nào đó trong các mối quan hệ, cũng
có thể nó đến từ một sự mất mát lớn lao khiến người ta cảm thấy hụt hững trong
cuộc sống khiến họ thấy khổ, nó cũng có thể là một người suy nghĩ về tính chất
vô thường giả tạm của đời sống qua những gặp gỡ tiếp xúc và chiêm nghiệm. Nhưng
thấy khổ và thấy vô thường giả tạm cũng chưa đủ để người ta vượt qua chúng,
người ta cần phải hiểu chính mình qua các mối quan hệ và các sự kiện xẩy ra
trong đời sống, và từ đó thấy ra tính vô ngã trong vạn pháp để thôi thủ chấp và
tích lũy. Như vậy, đến giai đoạn cuối, tu là buông bỏ, bắt đầu từ buông bỏ tà
kiến chấp thủ, buông bỏ các ác hạnh khiến mình và người đau khổ, buông bỏ các
định kiến và các thói quen không lành mạnh đã được điều kiện hóa, cho đến buông
bỏ cả pháp môn đã từng tu tập trong một giai đoạn nào đó trên đường giải thoát.
Phải biết rằng Pháp Phật như những liều thuốc chữa bệnh cho chúng sinh, khi
bệnh hết thì không cần phải uống thuốc đó nữa.
Diệu pháp là thần dược, Pháp (như dược liệu) được liệt kê là gồm
37 vị, chia ra thành 7 thang, nhưng tựu trung lại có 7 pháp gọi là bồ đề phần.
Khi phật pháp được xem như một con đường sống để có hạnh phúc an lạc chân thật,
thì nó lại được gọi là Bát Thánh Đạo. Và khi Pháp được miêu tả như những gì cần
phải huấn luyện, học tập để có được an lạc giải thoát thì chúng ta lại phải
thực hành “Giới-Định-Tuệ”. Người Phật tử tu chính là học và thực hành những
pháp trên.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]