Tôi đã kể rõ
30 tên giặc phiền não, nào tên họ, tài năng và hành tướng của chúng một cách
tường tất rồi, bay giờ tôi xin nói qua đạo binh hiền từ ở trong tâm chúng ta.
Đạo binh này chẳng khác nào như các vị Trung-thần Nước nhà được thạnh-trị, dân
chúng được hưởng hạnh phúc thái bình an laic, vua giữ vững được ngai vàng, đều
nhờ các vị Trung thần. Chúng ta được làm Quân-tử, hay thành Thánh Hiền, cũng
nhờ đạo binh hiền từ ở nơi tâm chúng ta, thắng được giặc phiền não vậy. Đạo
binh này có 11 anh.
1. Tín là tin. Trong kinh nói : " Lòng tin là mẹ
sanh ra các công đức". Vì có tin nhơn quả, tội phước, nên mới bỏ dữ làm
lành, có tin tu hành sẽ được giải thoát, nên mới quyết tu; tin giữ giới có
nhiều công đức, khỏ đoạ trong tam đồ ác đạo, cho nên mới phát nguyện giữ giới.
Trong Duy-thức chép: " Đức tin cũng như hột châu thanh thủy, hay làm cho
nước được trong . Đức tin này, nó làm cho tâm mình được thanh tịnh". Do có
tin nhân quả, tội phước nên mới hăng hái bỏ những việc ác và ưa làm việc lành.
Vậy đức tin là điều cần yếu của người tu hành (mê tín thuộc về ác kiến tâm sở)
2. Tinh Tấn là siêng
năng, chấm ham. Đối với
việc dữ siêng năng dứt trừ, với việc lành siêng năng làm theo. Người học trò
nhờ siêng năng nên mau giỏi. Người làm ruộng nhờ siêng năng nên thâu góp luau
thóc được nhiều. Người đi buôn nhờ siêng năng nên của tiền mau phát thạnh.
Người làm thợ nhờ siêng năng nên công nghệ mỗi ngày thêm phát đạt. Người tu
hành nhờ siêng năng, mà mau được thành đạo, chứng quả. Thuở xưa Đức Thích Các
Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa nhờ siêng năng, nên mới thành
đạo trước đức Di Lặc. Nói tóm lại, siêng năng là một đức tính tốt, cần thiết
cho tất cả mọi người, để dùng trong tất cả trường hợp (siêng năng cờ bạc ,rươụ
trà, coi hát v.v.. là phóng dật tâm sở (buông lung) thuộc về phiền não, chớ
không phải thiện tâm sở, xin quý vị chớ lộn).
Tàm là tự mình xấu hổ.
4. Quí là thẹn với người. Phàm làm việc gì có tội lỗi, đối với
lương tâm mình biết xấu hổ, đối với người rất thẹn thuồng; như chúng ta tham
lam, gian lận một vật gì của ai, đối với mình lấy làm xấu hổ: " Ta là phật
tử đã thọ giới pháp của Phật dạy, không được tham lam trộm cướp, mà lại còn tham
lam, gian trá làm sự tội lỗi như thế ư!". Đối với người khác, mình hết sức
thẹn thuồng; như trong lúc chúng ta uống rượu, tự xét rằng: " Ta là
Phật-tử đã hứa trước Đức Phật và Chư Tăng không uống rượu, mà hôm nay ta lại
uống rượu say sưa như vầy, thì ta đâu còn phải là Phật tử nữa, nên hết sức hổ.
Đối với những bạn đồng quy y, thọ giới có ai say sưa như ta
không? Rồi thẹn thuồng với người. Nói tóm lại, biết hổ thẹn là đức tính tánh
tốt. Người biết hổ thẹn mới mong tránh được những tội lỗi và mới có thể tăng
tiến trên đường lành. Đã là Phật tử, chúng ta nên có và phải có hai đức tánh này
(Hổ và Thẹn) để áp dụng trong những lúc, chúng ta làm những điều tội lỗi. Biết
hổ thẹn như thế gọi là "Tu Tâm"
5. Vô Tham là không tham
lam. Đối với tiền tài
không tham, vì biết các pháp là vô thường; sắc đẹp không muốn vì quán thân là
bất tịnh; danh vọng chẳng màng, vì biết thọ là khổ, mà chỉ an phận tùy duyên.
Do không tham lam nên không giành giựt, bởi không giành giựt nên không đánh
đập, chém giết nhau. Nếu tất cả mọi người trên thế giới đều không tham lam;
không xâm chiếm thị trường, không xâm chiếm đất đai lẫn nhau, thì chắc chắn thế
giới sẽ hòa bình an lạc.
6. Vô Sân là không
nóng nảy, giận hờn. Sân
hận là một điều hại lớn. Kinh Hoa-Nghiêm nói: "Nhứt niệm sân tâm khởi, bá
vạn chướng môn khai". Nghĩa là một niệm sân hận nổi lên thì trăm ngàn tội
chướng đều sanh ra. Ngạn ngữ có câu: " Ăn nóng quá mất ngon, giận tức lắm
mất khôn". Không sân hận" là một anh kiện tướng dẹp trừ được giặc
phiền não sân hận. Muốn cho đức tánh không sân hận có nay đủ lực lượng đê dẹp
trừ lòng sân, thì cần phải tu pháp quán Từ-bi hay Nhẫn nhục là nhịn chịu các
điều nhục nhã, không sân hận. Duy có đức từ bi và nhẫn nhục, mới rưới tắt được
lửa sân hận. Chúng sanh nhiều kiếp sanh-tử luân hồi, bởi không thắng nổi lòng
sân. Chư Phật được tự tại, giải thoát, lả do dứt trừ được lòng sân tận gốc. Bởi
thế nên Phật tử chúng ta phải tập tánh không sân hận. Như thế gọi là "Tu
Tâm".
7. Vô Si là không mờ ám,
si mê. Đối với tất cả
việc, lúc nào cũng có trí huệ sáng suốt, suy xét, phán đoán việc tà, chánh,
hay, dở, phải, trái v.v…Do đó, việc làm mới chánh đáng, tránh khỏi những điều
tai hại, vừa lợi ích cho mình và người ở hiện tại cũng như ở tương lai.
8. Khỉnh An là thân
tâm nhẹ nhàng, thơ
thới, làm việc vui vẻ, không mờ mịt (hôn trầm) nặng nề, được khoan khoái yên
vui. Người mà thân tâm được nhẹ nhàng, thơ thới, thì trí huệ mới sáng suốt, học
hành mau nhớ, tu niệm mau thành công, suy nghĩ chuyện gì cũng mau lẹ. an vui.
9. Bất Phóng Dật là
không buông lung, biết
tự kiềm thúc lấy mình, để tiến trên con đường chơn tánh. Lo làm các việc lành,
không buông lung cờ bạc, rượu trà, phá trai, phạm giới, làm những điều ích kỷ
tổn nhơn. Người học Phật biết tự kiềm thúc lấy mình, mới gọi là người biết
"Tu Tâm.
10. Hành Xả là làm mà
không cố chấp. Có hai:
1._ Nếu gặp những cảnh trái
ngược, làm cho ta đau
khổ, phải xả bỏ ngay đi, thì ta mới được hết khổ. Tỷ như bị người chọc giận,
nếu ta cố chấp mãi, thì trong lòng ta sẽ bực tức, nặng nề khó chịu. Nếu ta liền
hỷ xả, thì sẻ thấy lòng ta nhẹ nhàng vui vẻ.
2.- Mỗi khi ta làm được điều
lành, không nên cố chấp
và ghi nhớ mãi. Nếu cố nghĩ đến việc lành ta đã làm, nhiều khi sanh ra tánh tự
cao, rồi sẽ đi dần đến chỗ tự kiêu hay tự đắc, hoặc cho như thế là đủ rồi không
làm nũa. Tỷ dụ như ta cho người ăn xin một trăm đồng bạc, nếu ta nhớ mãi thì chút
nữa có người khác đến xin, ta quyết không cho, vì ta nhớ vừa mới cho một trăm
đồng rồi. Trái lại, nếu cho rồi mà không ghi nhớ, thì một lác sau có người khác
đến xin, ta có thể cho nữa, nhờ ta biết xả, không nhớ mình đả có cho vậy.
11. Bất Hại là không làm
tổn hại người và vật.
Đối với mọi người và mọi vật, nếu chúng ta không làm được lợi cho họ thì thôi,
chớ không nên làm tổn hại. Vì người khác làm tổn hại mình, mình đã không chịu,
thì chúng ta chớ nên làm tổn hại người. Không làm tổn hại người và vật, là
chúng ta tạo cho mình một nhân tốt, sẽ đưa đến đức tánh từ bi của Phật. Tóm
lại, chúng ta biết nuôi dưỡng 11 đức tánh Thiện này, như thế là " Tu
Tâm".
Điều Cốt Yếu Nhứt Là Hằng Ngày Chúng Ta Nên Tự Kiểm Thảo Tâm
Niệm Của Mình. Chúng ta đã hiểu rõ trong tâm mỗi người đềi có 11 anh tướng lành
và 30 tên giặc phiền não. Quý vị đã biết hình dạng, tên tuổi và tài năng, binh tướng
của ta và của giặc rồi. Vậy chúng ta thường ngày, nên tự kiểm thảo từng giờ,
từng phút: khi một tâmniệm nổi lên, chúng ta xem xét nó lả thiện hay ác, Cũng
như người cầm binh ra chiến trường, vừa thấy bóng người thấp thoáng, phải quan
sát cho kỹ, đây là binh tướng của ta hay của giặc. Có thế mới khỏi cái hại
" nhận giặc làm con" và mới mong dẹp trừ được giặc.
Như trong lúc chúng ta thấy tiền của, sắc đẹp danh vọng v.v… sanh
lòng "tham muốn", đó là tham tâm sở hiện ra, nó là giặc phiênnão.
Chúng ta phải mau mau trừ đi, như thế gọi là "Tu Tâm"..Trong lúc
chúng ta gặp cảnh trái nghịch, "nổi nóng" (sân), "tức giận"
(phản) lên, "oán hờn" (hận) và "buồn bã bực tức" (não) thối
đạo, nản lòng, đó là phiền não yam sở hiện ra. Nó là giặc đến hại ta, nó sẽ đốt
tiêu rừng công đức và phá hoại thành Niết bàn của ta. Ta nhiều kiếp sinh tử
luân hồi cũng vì nó. Vậy người Phật tử phải mau trừ đi; như thế gọi là "Tu
Tâm".
Trong lúc chúng ta làm điều tội lỗi, phá trai, phạm giới mà
không hổ thẹn với lương tâm, không thẹn với chúng bạn, thế là hai món phiền não
"không hổ" và "không thẹn" hiện ra. Nó là giặc phá hại,
chúng ta phải lập tức trừ đi.
Đến giờ tụng kinh, niệm Phật hay đến ngày lễ phải đi chùa lễ
Phật nghe kinh, mà chúng ta thấy trong người dã dượi chẳng muốn đi; đó là tâm
sở "giải đãi" là giặc; hay chỉ muốn đi coi hát, hoặc đánh bài v.v… đó
là tâm sở "buông lung", thuộc về giặc phiền não, chúng ta phải trừ
đi, như thế gọi là "Tu Tâm".
Trong lúc chúng ta làm điều tội lỗi mà che giấu, không chịu phát
lồ sám hối; đó là tâm sở "phú" thuộc về giặc phiền não. Khi chúng ta
thấy người có tài năng, danh vọng, hay được lợi lộc, mà sanh lòng ghen ghét
không ưa; đó là tâm sở "tật đố", cũng thuộc về giặc phiền não.
Khi chúng ta biết được việc hay, không chịu chỉ dạy cho người,
hoặc thấy người thiếu thốn về vật chất, mình có của mà không giúp đỡ; đó là tâm
sở "bỏn xẻn" thuộc về phiền não. Nếu giặc phiền não cường thạnh, thì
nó sẽ phá hại chúng ta vô cùng vô tận.
Trong lúc tụng kinh, niệm Phật mà thấy tâm mình lao chao không
yên tĩnh, hoặc miệng nói lắp bắp, nói chuyện gì cũng không đáng chuyện gì, ngồi
đâu thì nhịp đùi, rung vế, hoặc đứng ngồi không tề chỉnh; đó là "điệu cử
tâm sở". Còn nghĩ tưởng xằng xiêng là "tán loạn tâm sở".
Trong lúc tụng kinh, niệm Phật mà tâm tánh mơ màng, nặng nhọc
(ngủ gục) đó là "hôn trầm tâm sở" thuộc về giặc phiền não; trái lại
nhẹ nhàng khoan khoái, tụng niệm sáng suốt là "khinh an tâm sở" thuộc
về đạo binh lành.
Xin xăm, bói quẻ, cầu thần, đảo qui, làm những điều mê tín, dị
đoan, đốt vàng bạc, giấy tiền, lầu đài kho phướng, chấp chặc theo thành kiến
của mình, không tin lời nói phải, hoặc làm theo tục lệ cổ truyền không chánh đáng,
giữ gìn theo những giới cấm tà đạo; như thế đều thuộc về "tà kiến"
(ác kiến) tâm sở. Đó là giặc phiền não, chúng ta phải mau dẹp trừ. Như thế gọi
là "Tu Tâm".
Đối với người, ta dùng những mưu mô để lừa dối, nói năng xảo trá
, đó là "cuồng tâm-sở", thuộc về phiền não; hoặc nói những lời nịnh
hót, bợ đỡ, người hỏi không đáp, là "siễm" và "kiêu tâm
sở"; có ý khinh rẽ, hiếp đáp lấn lướt người, là "ngã main tâm
sở". Trên đây thuộc về giặc phiền não cả, chúng ta phải diệt trừ. Như thế
gọi là "Tu Tâm".
Mỗi khi chúng ta thấy việc đạo, sốt sắng ra làm, là "tinh
tấn tâm sở"; đến giờ tụng kinh niệm Phật siêng năng, là "tinh tấn tâm
sở", thuộc đạo binh lành. Lỡ làm điều gì tội lỗi đối với mình hết sức hổ,
với người hết sức thẹn, đó là "tàm" và "quí" tâm sở, cũng
thuộc về lành. Thấy vàng bạc, của cải, danh vọng, sắc đẹp không tham, đó là
" vô tham tâm sở", thuộc binh tướng lành. Đối với cảnh nghịch, lòng
không nóng nảy, giận hờn, đó là " vô si tâm sở", cũng thuộc về lành.
Gặp một việc gì, ta sáng suốt phán đoán hay dở, lợi hại, là "vô si tâm
sở". Không cờ bạc rượ trà phá trai phạm giới, buông lung phóng đảng đó là
" bất phóng dật tâm sở". Gặp những việc người ta làm cho mình đau khổ
mà mình hỷ xả; làm được việc gì hay, tốt, có công đức mà không chấp trước (nghĩ
đến) là "hành xả tâm sở". Không giúp ích được người và vật thì thôi,
chớ không làm tổn hại, đó là "bất hại tâm sở". Trên đây đều thuộc về
đạo binh hiền từ của chúng ta, chúng ta nuôi dưỡng làm cho nó mạnh mẽ thêm lên,
mới mong thắng được giặc phiền não trên kia. Như thế gọi là "Tu Tâm".
Nói tóm lại, hàng ngày và từng giờ từng phút, chúng ta phải
thường tự kiểm thảo tâm mình như thế. Mỗi khi có một niệm nổi lên, chúng ta
phải thường tự kiểm thảo tâm mình như thế. Mỗi khi có một niệm nổi lên, chúng
ta phải xét ngay coi là thiện hay ác. Nếu ác, thì chúng ta phải mau mau dẹp trừ;
còn thiện, thì chúng ta phải làmsao cho nó thêm tăng trưởng. Nếu giặc phiền não
nổi lên, mà chúng ta để cho nó tự do hoành hành, không sớm dẹp trừ, thì nó sẽ
phá tan nước Công đức, cướp đoạt thành Niết bàn của chúng ta; làm cho ta thành
kẻ đê hèn và nô lệ cho vật dục, hoặc phải đọa trong ba đường dữ là Địa ngục,
Ngạ quỉ và Súc sanh.
Trái lại, đạo binh từ thiện trong tâm chúng ta, nếu chúng ta
biết nuôi dưỡng nó. Làm cho nó được mạnh mẽ, hùng dũng, thì nó sẽ đánh tan được
giặc phiền não, giữ gìn nước Công đức, bảo thủ thành Niết bàn, làm cho ta trở nên
hiền, thánh hay Phật. Đạo binh hiền từ, kháng chiến với giặc phiền não trong
nội tâm chúng ta như thế, không những từng ngày, từng giờ mà phải luôn luôn
từng phút từng giây; không phải một năm hai năm, mà phải nhiều đời nhiều kiếp,
mới thắng được giặc phiền não. Kháng chiến như thế mới thật là " trường kỳ
kháng chiến". Như Đức Phật Thích Ca phải trải qua bao vô số kiếp tu hành,
mới hoàn toàn thắng được giặc phiền não, thành quả vị Phật. Thành một vị Phật
như thế, thật đâu có phải dễ, vì thế nên gọi là "Phật bảo". Bởi thế
nên, chúng ta dù suốt đời lạy Ngài đi nữa, cũng chưa xứng. Có người nghĩ rằng:
"Tu hành là việc khó, mà phải trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật thì
lâu quá, ai làm được!"
Sách nói: "Thế thượng vô nan sự, đô lai tâm bất
chuyển". Nghĩa là: Trên đời không có việc chi khó, chỉ tại tâm mình không
chuyên cần. Nếu không ai làm được, sao Đức Phật Thích Các Bồ tát Ma ha tát khi
tu hành Bát nhã Ba la mật đa và nhiều Đức Phật khác lại thành được. Phật đã dạy
rằng: " Kia là trượng phu, thì ta đây cũng vậy, chớ nên tự khinh mình mà
lui suit". Người nghĩ sợ như thế, chẳng khác nào như người học trò lớp
năm, mà trông lên địa vị Thạc sĩ hay Bác sĩ, rồi họ thối chí và nói rằng: "Học
đến hai mươi mấy năm mới đậu Thạc sĩ ai học được!". Thật ra ông Thạc sĩ
lúc đầu tiên cũng học lớp năm như ai vậy. Tuy biết rằng đường dài, nhưng từy
theo sức mình, tu được bao nhiêu, sẽ được lợi ích bay nhiêu. Như người học lớp
năm; khi lên nhứt, thì vẫn thấy lợi ích học ở lớp nhứt, cho đến khi lên trung
học, đại học, v.v… thì đều có lợi ích ngang các cấp ấy; học được lớp nào cũng
đều có lợi ích cả. Dù Bác –sĩ hay Thạc sĩ, trong lúc đầu tiên cũng học ở lớp
thứ tư lớp năm như ai. Như quý vị đạo hữu thọ ngu giới thì chỉ thấy ích lợi ở
ngang năm giới; đến khi thọ giới Bồ Tát, thì được lợi ích ở giới Bồ Tát. Dù
thành quả Phật cao siêu, song lúc đầu tiên, quí Ngài cũng như chúng ta vậy.
Thắng được giặc phiền não, không phải là một việc dễ, phải trải
qua một thời gian lâu xa đến 3 vô số kiếp mới hoàn toàn thắng được; có thắng
được mới thành Phật. Vậy chúng ta trong lúc thấy những người tu hành còn tham sân
v.v… chớ nên trách họ. Vì còn phiền não cho nên họ mới tu. Nếu hết phiền não
thì họ đã thành Phật rồi, cần gì phải tu nữa. Cũng như còn kháng chiến tức là
còn giặc; đã còn giặc thì có khi thắng trận, mà cũng có lúc bại trận. Người ở
trong vòng tu hành cũng thế, có khi thắng được giặc phiền não, mà cũng có lúc
giặc phiền não thắng. Vậy chúng ta không nên trách: "người tu sao còn
tham, sân v.v…"
Chúng ta từ hồi nào dean giồ , bị giặc phiền não xâm chiếm, cướp
mất chủ nhơn ông (chơn tâm). Nó trói cột, xiềng xích, làm cho ta mất tự do; bị
nó sai sử, đầy đọa bắt ta làm nô lệ cho thất tình lục dục, mất độc lập. Vậy chúng
ta phải nổ lực dùng đạo binh hiền từ, kháng chiến cho thắng được giặc phiền não
ở nội tâm, phá tan xiềng xích nô lệ, lấy lại thành Giải thoát, đem trở về chủ
nhơn ông (chơn tâm 0) như thế mới thật là độc lập, mà có độc lập, ta mới được
tự do.
Nếu như nước nhà được độc lập, dân chúng được tự do, mà tâm ta
hãy còn bị phiền não trói buộc, thất tình lục dục sai sử, gây tạo những điều
tội ác, thì ta không sao khỏi bị gông cùm tù tội. Dù cho nước nhà có thật độc
lập, dân chúng được tự do hoàn toàn, mà ta vẫn bị xiềng xích gông cùm nô lệ cho
vật chất như thường, không được tự do và độc lập chút nào cả. Vậy dám mong, tôi
cùng quý vị, cố gắng kháng chiến cjo hoàn toàn thắng được giặc phiền não ở nơi
tâm mình, để khỏi làm nô lệ cho thất tình, lục dục, để được giải thoát như
Phật. Như thế mới hoàn toàn tự do độc lập. Và được như thế, là do chúng ta biết
"Tu tâm".
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]