
Phàm làm
người, nhìn chung ai cũng có một ước mơ, một lý tưởng và suốt đời phấn đấu để
đạt được mục đích. Có người muốn mình là bác sĩ giỏi, có người muốn trở thành
một thương gia hay triệu phú. Cũng có người muốn là một nhà giáo, phóng viên,
diễn viên, ca sĩ...để lưu danh trong thiên hạ.
Nhưng tất cả mọi ước mơ, mọi hành động đều xây dựng trên
bản ngã tầm thường, mọi người có nó vì có ái trọng tự ngã của mình và làm
mọi việc để phục vụ cho thiên thần của họ chính là cái “Ta” của mỗi
người. Cũng đồng là chúng sanh, nhưng nhờ thiện duyên từ bao đời kiếp,
chúng ta được thân người, được nghe Phật pháp, được sống trong chánh pháp làm
đệ tử của Phật phải có một chí hướng như thế nào cho cuộc sống? Quy
Sơn cảnh sách nói: “Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương” (Phàm xuất gia là
bước đến một chân trời cao rộng).
Trong quyển Hành Bồ Tát Hạnh có nói : “Từ lúc những chúng sanh
đáng thương bị vướng vào ngục sinh tử, biết phát tâm bồ đề là họ được phán danh
hiệu con của chư Phật”, hay nói cách khác hơn con Phật điều tất yếu là phải
phát Bồ đề tâm.
Ý nghĩa Bồ đề tâm
Trí tuệ của thuật ngữ Bồ đề được xuất phát từ “dục tâm sở” trong “ngũ biệt cảnh”. Bồ đề nghĩa là giác. Trong ấy có ba bậc: Thanh văn Bồ đề, Duyên giác Bồ đề và Phật bồ đề. Sám Hồng Danh viết “Dục tâm sở không cầu thanh văn và duyên giác cho đến quả vị Bồ tát mà duy y tối thượng thừa cầu vô thượng Bồ đề nên gọi là Bồ đề tâm”. Vậy Bồ đề tâm hay là tâm “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” đó là chí hướng cao cả của một người con Phật. Kinh nói: “Bồ đề tâm là nhân, đại bi là cơ bản, là phương tiện, là cứu cánh”. Ví như người đi xa, trước tiên phải nhận định mục đích sẽ đến, phải ý thức chủ đích của cuộc hành trình bởi lý do nào, và sau cùng dùng phương tiện hoặc xe hoặc thuyền mà khởi tiến. Người tu cũng thế, trước tiên phải lấy quả vị vô thượng Bồ đề làm mục tiêu cứu cánh, lấy lòng đại bi lợi mình lợi sanh làm chủ đích thực hành, sau đó tùy sở thích căn cơ, lựa chọn pháp môn để vứng tiến trên đường đạo dưới ánh hào quang Bồ đề tâm chói lọi.
Trí tuệ của thuật ngữ Bồ đề được xuất phát từ “dục tâm sở” trong “ngũ biệt cảnh”. Bồ đề nghĩa là giác. Trong ấy có ba bậc: Thanh văn Bồ đề, Duyên giác Bồ đề và Phật bồ đề. Sám Hồng Danh viết “Dục tâm sở không cầu thanh văn và duyên giác cho đến quả vị Bồ tát mà duy y tối thượng thừa cầu vô thượng Bồ đề nên gọi là Bồ đề tâm”. Vậy Bồ đề tâm hay là tâm “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” đó là chí hướng cao cả của một người con Phật. Kinh nói: “Bồ đề tâm là nhân, đại bi là cơ bản, là phương tiện, là cứu cánh”. Ví như người đi xa, trước tiên phải nhận định mục đích sẽ đến, phải ý thức chủ đích của cuộc hành trình bởi lý do nào, và sau cùng dùng phương tiện hoặc xe hoặc thuyền mà khởi tiến. Người tu cũng thế, trước tiên phải lấy quả vị vô thượng Bồ đề làm mục tiêu cứu cánh, lấy lòng đại bi lợi mình lợi sanh làm chủ đích thực hành, sau đó tùy sở thích căn cơ, lựa chọn pháp môn để vứng tiến trên đường đạo dưới ánh hào quang Bồ đề tâm chói lọi.
Trong một quyển kinh nói: “Như châu ngọc trong biển cả sáng hơn
tất cả sỏi đá của lục địa phương Nam. Những người phát tâm Bồ đề trong dòng
thức của họ sáng chói hơn tất cả thanh văn và duyên giác”. Khi có người phát Bồ
đề tâm, quả đất và tất cả pháp tòa của chư Phật đều rung động. Chư Phật chư Bồ
tát muốn xem bất cứ người nào phát Bồ đề tâm là anh chị em của họ vì người có
Bồ đề tâm ấy sẽ dẫn đạo nhiều hữu tình và gây một chấn động lớn trong cõi sinh
tử. người phát tâm ấy sáng chói hơn cả thanh văn, duyên giác là nhờ năng lực
lòng vị tha của họ.
Vào thời đức
Phật có một người hành khất cúng đức Phật một cây đèn dầu nhỏ với tâm Bồ đề.
Ngài A-nan không dập tắt được cây đèn ấy và đức Như Lai đã dạy rằng ngay cả
ngọn cuồng phong thời kiếp tận cũng không thể dập tắt được do sự tăng trưởng liên
tục của công đức. khi làm việc với sự điều động của tâm Bồ đề thì bất cứ việc
gì ta làm cũng sẽ đem lại những lợi lại cho hữu tình.
Chính vì vậy, những Đại Bồ tát còn có thể chuyển điều phi
phước thành ra phước lành vì họ làm mọi việc với tâm Bồ đề. Nếu bố thí cho hàng
trăm hàng ngàn chúng sanh trong vô số kiếp mà không có tâm Bồ đề thì nghiệp quả
cuối cùng cũng chấm dứt.
Nội dung Khuyến phát Bồ đề tâm
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy. Song những văn bản có những nét đặc sắc không giống nhau.
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy. Song những văn bản có những nét đặc sắc không giống nhau.
Nếu trong bản phát Bồ đề tâm luận của Ngài Thế Thân cho ta thấy phảng
phất tâm linh con người rạt rào và rộng mở thì văn bản của Ngài Tĩnh Am đứng
trên phương diện phân tích tâm lý và đạo đức đã chỉ rõ cho chúng ta thấy con
đường đi hay một ý tưởng cao cả của cuộc sống đó là phát Bồ đề tâm để con người
tiến dần về với cuộc sống bao la, vô cùng, vô tận.
Ngài nêu rõ trên bước đường từ bản nguyện thế gian đến thành
tựu tâm nguyện Bồ đề đã đi qua bao nhiêu yếu tố tâm lý tốt xấu, cao thấp không
đều nhau, goi là các tướng của tâm nguyện Bồ đề. Và trên con đường hướng
thiện ấy biết bao nhiêu nhân duyên liên hệ kích động đến chí nguyện Bồ đề
ấy thành tựu hơn gọi là nhân duyên phát tâm. Hay nói khác hơn văn bản này
nêu lên ý tưởng sống cao cả cho hàng Phật tử và đồng thời nêu lên
tiêu chuẩn hoạt động cho sự sống đó. Trước hết Ngài phân tích tâm ta có
tám hướng, chữ “hướng” ở đây chỉ nêu lên một phần sinh động của nội tâm.
Thật ra, sự sinh hoạt của nội tâm là một dòng diễn biến có
thể vượt ra ngoài không gian vô cùng, thời gian vô tận. Tuy nhiên, ở đây
tác giả có ý muốn chúng ta dừng lại, nhìn nội tâm ở một góc độ tương đối, vì
thế nói tâm có tám hướng đó là: tà, chánh, chơn, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên.
Có những người tu không tham cứu tự tâm, chỉ biết theo bên ngoài,
hoặc cầu danh lợi, đắm cảnh vui hiện tại hay mong quả phước tương lai mag
phát lòng Bồ đề. Phát tâm như thế gọi là tà. Như chẳng cầu danh lợi, không tham cảnh vui, cùng mong quả phước;
chỉ vì thoát vòng sinh tử, tự mình lợi sanh mà cầu đạo Bồ đề, phát tâm như thế
gọi là chánh.
Mỗi niệm trên cầu vì Phật đạo, dưới vì độ chúng sanh, nhìn đường
Bồ đề dài xa mà không khiếp, thấy loài hữu tình khó độ nhưng không sờn. Tâm bền
vững như lên núi quyết đối đảnh, như leo tháp quyết đến chóp, phát
tâm như thế gọi là chơn (thật).
Có tội lỗi không sám hối chừa cải, ngoài dường như trong sạch,
trong thật nhớp nhơ, trước tinh tấn, sau lười biếng. Dù có tâm tốt nhưng còn
xen lẫn lợi danh, tuy có pháp lành song bị tội lỗi làm ô nhiễm, phát tâm
mà còn những điều này gọi là ngụy.
Coi chúng sanh hết nguyện ta mới hết, Bồ đề thành nguyện mới thành,
phát tâm như thế gọi là đại. Xem tam giới như tù ngục, sanh tử như oan gia, chỉ mong
mình mau giải thoát, chẳng muốn độ người, phát tâm theo quan niệm này gọi là
tiểu.
Thấy chúng sanh và Phật đạo ở ngoài tự tánh, rồi nguyện
độ nguyện thành, đường công hạnh chẳng quên, sự thấy hiểu không
dứt, phát tâm như thế gọi là thiên. Biết chúng sanh và Phật đạo đều là tự tánh nên nguyện độ
nguyện thành, tu công đức mà không thấy mình có tu, độ chúng sanh mà không thấy
chúng sanh được độ, phát tâm như thế gọi là viên.
Sau khi biết rõ tám hướng, chúng ta phải thẩm định hướng
nào phù hợp với cái gọi là phát Bồ đề tâm. Đương nhiên phải hướng nội tâm
sinh hoạt theo hướng mà chánh văn gọi là chánh, chơn, đại, viên; phải bỏ
cái gọi là tà, tiểu, ngụy, thiên. Biết chọn điều hướng sinh hoạt đó
để phát triển nội tâm thì có thể thành tựu tâm nguyện Bồ đề, như vậy mới
là chơn chánh phát Bồ đề tâm.
Sau sự phân tích tâm lý này, ngài Tĩnh Am lại đặt tâm nguyện qua
những điểm đạo đức. Ngài không giải quyết vấn đề một cách trừu tượng khó hiểu,
vì đạo vị không thể đánh giá bằng hình thức đạo đức bên ngoài, đạo
vị là hương vị của cuộc sống hiểu mình, hiểu người, vì mình và vì
người. Ngài chú trọng mật thiết về vấn đề thể hiện đạo đức trong cuộc
sống hằng ngày, đặc biệt đó là lòng biết ơn. Sống đạo đức là sống tích cực về
mọi phương tiện. Ngài Tĩnh Am kêu gọi đồ chúng trong việc tu học hằng ngày cần
phải chú trọng mười điểm, đó là mười nhân duyên phát tâm. Mười nhân duyên ấy
là: Vì nghĩ đến ân Phật, vì công ơn cha mẹ, vì nhớ ơn Sư trưởng, vì tưởng ơn tín
thí, vì lo khổ sanh tử, vì tôn trọng tánh linh, vì sám trừ nghiệp chướng, vì hộ
trì chánh pháp, và vì cầu sanh tịnh độ.
Những huấn thị về bồ đề
tâm và làm thế nào phát bồ đề tâm
Trong nội điển thuyết minh rất nhiều về Bồ đề tâm, ở đây chỉ trích lục ít đoạn trong kinh Hoa Nghiêm.
Trong nội điển thuyết minh rất nhiều về Bồ đề tâm, ở đây chỉ trích lục ít đoạn trong kinh Hoa Nghiêm.
“Nầy Thiện nam tử! như người học bắn, trước phải tập thế đứng,
sau mới biết cách đề bắn. Cũng thế Bồ tát muốn học đạo nhất thiết trí của Như
Lai phải an trụ nơi Bồ đề tâm, rồi sau mới tu hành tất cả Phật pháp. Thiện nam
tử! ví như vương tử tuy hãy còn thơ ấu song tất cả đại thần đều kính nể. Cũng
thế Bồ tát tuy mới phát Bồ đề tâm tu Bồ tát hạnh, song tất cả kỳ cựu hàng nhị
thừa đều phải kính trọng nể vì. Thiện nam tử! máy bằng gỗ nếu không có mấu chốt
thì các tành phần rời rạc chẳng thế hoạt động.
Cúng thế Bồ tát nếu thiếu Bồ đề tâm thì các hạnh đều phân
tán, không thể thành tựu tất cả Phật pháp. Thiện nam tử! như chất kim cương tất
cả các vật khác không thể phá hại, trái lại có thể phá hại tất cả các vật, song
thể tánh của nó vẫn không tổn giảm. Bồ đề tâm của Bồ tát cũng thế, khắp ba đời
trong vô số kiếp giáo hóa chúng sanh tu các khổ hạnh, việc hàng nhị thừa
không thể làm đều được, song vẫn chẳng chán mỏi, giảm hư”.
Ngài Phổ Hiền Bồ tát bảo: “Thiện nam tử! Bồ tát vì điều phục
giáo hóa tất cả chúng sanh nên mới phát Bồ đề tâm. Vì trừ diệt khổ cho tất cả
chúng sanh nên mới phát Bồ đề tâm. Vì đem cho tất cả chúng sanh sự an vui đầy
đủ nên mới phát Bồ đề tâm. Vì trừ diệt sự ngu tối cho tất cả chúng sanh nên mới
phát Bồ đề tâm. Vì đem Phật trí cho tất cả chúng sanh nên mới phát Bồ đề tâm.
Vì cung kính cúng dường chư Phật nên phát Bồ đề tâm. Vì tùy thuận lời dạy Như
Lai khiến chư Phật hoan hỷ nên phát Bồ đề tâm. Vì muốn thấy sắc thân tướng hảo
của chư Phật nên phát Bồ đề tâm. Vì muốn vào trí huệ rộng lớn của tất cả chư
Phật nên phát Bồ đề tâm. Vì muốn biểu hiện tất cả các đức lụy vô úy của chư
Phật nên mới phát Bồ đề tâm”.
Như vậy, trong kinh Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn và chư Bồ tát
đã thuyết minh rộng rãi về công đức của Bồ đề tâm, trên đây chỉ trích một vài
yếu điểm. Kinh văn cũng có nói: “Cửa yếu và đạo trước hết phải phát tâm, việc
chính của tu hành trước tiên nên lập nguyện”. Nếu không phát tâm rộng lớn, lập
nguyện bền chắc dù trải qua vô lượng kiếp, vẫn y nhiên trong cõi luân hồi, dù
có tu hành cũng khó tinh tấn và chỉ luống công khổ nhọc. Do đó nên biết: Muốn
học Phật đạo, quyết phải phát Bồ đề tâm không thể trì hoãn.
Làm thế nào phát Bồ đề tâm:
Phát Bồ đề tâm như trên đã nói, có thể tóm tắt trong bốn điều hoằng thệ sau đây:
Phát Bồ đề tâm như trên đã nói, có thể tóm tắt trong bốn điều hoằng thệ sau đây:
“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.
Nhưng không thể nói suông “Tôi phát Bồ đề tâm”, hay từng
ngày đều đọc bốn điều thệ nguyện ấy là phát Bồ đề tâm. Thay vì nói theo thuật
ngữ “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” có thể hiểu phát Bồ đề tâm là phát
tâm phục vụ, khiến cho chúng sanh khai triển trí tuệ nội tâm để được giác ngộ
giải thoát, gọi là phát Bồ đề tâm chứ không phải là làm những việc xa vời.
Đôi lúc chúng ta mãi nghĩ đến tương lai, đến khi nào mới “thượng
cầu hạ hóa” được mà bỏ quên mất ý nghĩa thiết thực. Miệng nói rằng “hạ thủ công
phu”, “giải thoát sanh tử” nhưng những công việc cần thiết cấp bách ngay trong
hiện tại vãn chưa làm được, lại hứa hẹn “lúc nào mình hoát nhiên đại ngộ hay
thành Phật chẳng hạn, lúc đó sẽ cứu độ chúng sanh”, nghĩa là mới “hạ hóa” được,
còn bây giờ thì việc đó không thể làm.
Ngày xưa Ngài Tu Bồ Đề đã đại diện cho chúng ta nêu lên cái
nguyện vong băn khăn nghìn đời là “Làm thế nào để con được thành Phật”. Đức Thế
Tôn đã trả lời “Con nên độ hết thảy chúng sanh vào vô dư Niết bàn mà không thấy
có một chúng sanh nào được độ”. Hay hỏi “Làm thế nào để được giải thoát”, đức
Phật bảo: “Hãy lo độ sanh đi, tức khắc tâm con được an, tâm an tức là giải
thoát”.
Vì vậy ngay trong đời này chúng ta phải biết phát Bồ đề tâm.
Không có một đời tái sinh nào tốt hơn để phát Bồ đề tâm hơn trong đời hiện tại
này. Chúng ta phải xem mình có thể thực phát Bồ đề tâm không. Nếu không được
như vậy thì phải xem ta có vài kinh nghiệm gượng ép về Bồ đề tâm, hoặc có một
chút tri kiến ở mức độ thấp về Bồ đề tâm và dựa vào đó để phát tâm của mình.
Điều cốt yếu là chúng ta cần phải gieo vào tâm thức càng nhiều bản năng về Bồ
đề tâm càng tốt.
Cho nên vấn đề đặt ra một cách thiết thực là “Làm thế nào
phát Bồ đề tâm?”. Muốn cho lòng Bồ đề phát sanh và tăng trưởng, chúng ta nên
suy tư, quán sát để phát tâm theo sáu điểm sau đây:
1. Điểm thứ nhất là giác
ngộ tâm: chúng sanh thường
bị chấp chặt, bó buộc trong bản ngã và ngã sở của mình, mà không biết rẳng tứ
đại không thật, sắc thân này không trường tồn, giải hợp. Tâm thức cũng thế, nó
chỉ là thể tổng hợp về cái biết của sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp). Cổ đức đã dạy “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô”. Khi đã giác ngộ được rằng
tâm như huyễn, không chấp trước.
Cái ta không, nên không có bản ngã bền lâu, không thật chứng
đắc. Nhơn đã không thì pháp cũng không, vì sự cảnh luôn thay đổi trong
từng sát na, không có tự thể; cũng nên nhận rõ rằng chẳng phải các pháp
khi hoại diệt mà thành không, mà vì nó hư huyễn nên đương thể tức không,
nhơn cũng vậy. Người xưa đã nói “hà tu đãi hoa lạc nhiên hậu thỉ tri không”
(Cần chi đợi hoa rụng mới biết sắc là không).
Hành giả khi đã giác ngộ tâm và pháp đều không, giữ lòng thanh
tịnh, tâm giác ngộ như thế mà hành đạo mới gọi là phát Bồ đề tâm.
2. Thứ hai, bình đẳng tâm: Đức Phật dạy “Ta là Phật đã thành, các
ngươi là Phật sẽ thành”, nghĩa là ai cũng có Phật tánh nên đức Phật dùng tâm từ
bi, bình đẳng tế độ. Ngược lại chúng sanh vì tâm phân biệt nên khởi lòng ghét
khinh. Cũng đồng một cái nhìn nhưng khác nhau ở chổ là mê và ngộ. Là Phật tử,
đối với chúng sanh phải có tâm bình đẳng tôn trọng, vì đó là một vị Phật tương
lai, dứt trừ nghiệp chướng, phân biệt khinh mạn, nảy sanh được các đức lành.
Dùng lòng bình đẳng như thế mà hành đạo như thế gọi là phát Bồ đề tâm.
3. Thứ ba, từ bi tâm: Ta cùng chư Phật đồng một thể tánh, vậy
mà vì mê mờ, phiền não, đến hôm nay vẫn còn chìm đắm trong luân hồi, chịu vô
biên khổ. Hiểu được như thế ta phải dứt tâm phân biệt ghét thương, khởi lòng
cảm hối từ bi tìm phương tiện độ mình cứu người để cùng nhau được an vui thoát
khổ. Muốn cho tâm từ bi được rộng thêm ra, nên từ nỗi khổ của mình, cảm thông
đến nỗi khổ khó nhẫn thọ hơn của kẻ khác, tự nhiên sẽ sanh lòng xót thương,
muốn cứu độ, niệm từ bi của Bồ đề tâm từ đó phát sanh.
Ví như thấy người ta đau yếu, mà vì vật giá cao quý, không tìm
thuốc thang, thành ra kéo dài bệnh khổ qua năm tháng, thậm chí có kẻ phải quyên
sinh. Có những người nghèo nàn thất nghiệp, vợ đau, con bệnh, rách rưới, lang
thang sống không ổn, chết cũng không xong.
Lại có những kẻ mang trong mình tâm sự buồn khổ, không có bạn
lành khuyên lơn giải thích. Hoặc có những kẻ mê tối tạo nghiệp mà không
biết ngày mai mình sẽ khổ, không gặp Phật pháp, không có đường thoát ly. Thấy
những cảnh như vậy, động lòng thương xót muốn cứu độ, niệm từ bi của Bồ đề tâm
chưa phát bỗng tự phát sanh.
Nói rộng ra như trong kinh Hoa Nghiêm, ngài Phổ Hiền khai
thị: “Bồ tát quán chúng sanh không nơi nương tựa mà khởi lòng đại bi,
quán chúng sanh tánh chẳng điều thuận mà khởi lòng đại bi, quán sát chúng
sanh nghèo khổ không căn lành mà khởi lòng đại bi, quán sát chúng sanh ngủ
say trong đêm dài vô minh mà khởi lòng đại bi”. Đã phát đại bi tức
phát Bồ đề tâm thề nguyện cứu độ, thế thì lòng đại bi và Bồ đề tâm
thông nhau. Lưu ý rằng đại bi ở đây khác với ái kiến. Ái kiến là lòng thương
yêu mà chấp luyến trên hình thức nên bị sợi dây tình ái buộc ràng. Đại từ
bi là thương xót cứu độ mà lìa xa tướng không phân biệt chấp trước, tâm này thể
hiện dưới đủ mọi mặt nên kết quả được an vui giải thoát, phước huệ càng
tăng, dùng lòng đại bi như thế mà hành đạo mới gọi là phát Bồ đề tâm.
4. Thứ tư là hoan hỷ tâm: đã có xót thương tất phải thể hiện qua
lòng hoan hỷ. Hoan hỷ này nói đủ có hai: tùy hỷ và hỷ xả. Tùy hỷ là khi thấy từ
trên chư Phật, thánh nhơn, dưới đến các loài chúng sanh làm việc phước thiện, có
công đức, dù nhỏ mọn cũng vui mừng theo, hoặc thấy ai được phước lợi, thành
công, an ổn, hạnh phúc, mình cũng vui dùm. Hỷ xả là dù có chúng sanh làm nhiều
tội ác, vong ân khinh hủy, hiểm độc, đem lại sự bất như ý cho mình hoặc người
cũng an nhẫn vui vẻ bỏ qua. Khi có lòng hoan hỷ thì trừ được chướng tật đố nhỏ
nhen, diệt trừ được chướng hận thù báo phục. Bởi tâm hoan hỷ ấy không ngoài sự
giác ngộ mà thể hiện, đó chính là tâm Bồ đề. Dùng lòng hoan hỷ ấy mà hành đạo
thời gọi là phát Bồ đề tâm.
5. Thứ năm là sám nguyện
tâm: trong kiếp luân hồi,
mọi loài đã từng đắp đổi làm thân bằng quyến thuộc của nhau. Vì vô minh chấp
ngã nên cũng đã từng làm tổn hại nhau, tạo vô biên nghiệp. Hiểu được như vậy,
ta phải đem thân nghiệp lễ kính Tam Bảo, khẩu nghiệp bày tỏ tội lỗi cầu được
tiêu trừ. Ý nghiệp thành khẩn ăn năn thề không tái tạo để sám hối ba nghiệp
chướng sâu dày.
Lại phát nguyện hoằng dương chánh pháp để cứu độ muôn loài, đền
tứ trọng ân: ân Tam Bảo, ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân thiện tri thức và ân chúng
sanh để mong chuộc lại những lỗi lầm xưa trong muôn một. Có tâm sám nguyện như
vậy tội chướng mới tiêu trừ, công đức thêm lớn. Dùng tâm sám nguyện như
thế mà hành đạo mới gọi là phát Bồ đề tâm.
6. Thứ sáu là bất thối tâm: đời mạt pháp “ Phật cao nhất xích, ma
cao nhất trượng”, dù đã phát nguyện, đã sám hối nhang hoặc nghiệp và ma chướng
không dễ gì trừ dứt, sự lập công bồi đức cứu độ muôn loài không dễ gì thành
tựu. Mà con đường Bồ đề đi đến cõi viên giác lại xa vời, đầy rẫy cam go chướng
ngại, phải trải qua hằng sa kiếp, đâu phải chỉ một đời. Thế thì việc giữ tâm
nguyện thật không phải dễ! Cho nên hành giả muốn đạo tâm không thối chuyển phải
lập nguyện kiên cố, thề rằng: “Thân này dầu bị vô lượng sự nhọc nhằn khổ nhục,
hoặc bị đánh chết cho đến thiêu đốt tan thành tro bụi, cũng không vì thế mà
phạm điều ác, thối thất trên bước đường tu hành”. Dùng tâm bất thối chuyển như
thế mà hành đạo mói gọi là phát Bồ đề tâm.
Đó là những sự kiện phải có của người phát Bồ đề tâm. Nếu không y
theo đây mà lập chí tu hành thì dù có phát tâm cũng chỉ mới phát suông không thể
nào đi đến Phật quả được.
Bồ đề tâm – một đóa hoa
rạng ngời cuộc sống
Nếu như chỉ đứng trên vai trò ngôn gữ để nói, cho dù người có đầy đủ các tri kiến về Bồ đề tâm, cũng chưa đủ để quyết định đó là người đã phát Bồ đề tâm. Điều quan trọng là dựa trên cơ sở những hiểu biết về Bồ đề tâm, hành giả phải bắt tay vào thực hành để thực sự có được chất liệu Bồ đề tâm trong hương vị cuộc sống.
Nếu như chỉ đứng trên vai trò ngôn gữ để nói, cho dù người có đầy đủ các tri kiến về Bồ đề tâm, cũng chưa đủ để quyết định đó là người đã phát Bồ đề tâm. Điều quan trọng là dựa trên cơ sở những hiểu biết về Bồ đề tâm, hành giả phải bắt tay vào thực hành để thực sự có được chất liệu Bồ đề tâm trong hương vị cuộc sống.
Hằng ngày, có rất nhiều công việc để chúng ta làm với ý
nghĩa là phát Bồ đề tâm. Việc phát tâm ấy không phải là xa vời mà nó rất
gần gũi trong từng việc làm , quét sân, nhổ cỏ, gánh nước, nhặt rau... Nếu ta
làm với sự phát tâm, trong niệm tỉnh giác, trong niềm hoan hỷ. Nếu được như vậy
mới lợi lạc trên con đường hướng thượng của mình.
Lại, kinh văn có nói “Quên mất Bồ đề tâm dẫu tu thiện pháp
cũng là ma nghiệp”. Ma nghiệp ở đây là những hành động, tạo tác, suy tư đối với
tâm lý thấp hèn, ích kỷ, trở ngại cho sự nghiệp khai triển trí huệ nội tâm.
Mọi việc chúng ta làm nếu trên cầu Phật đạo mà không vì chúng
sanh thì trở thành ích kỷ không thể giải thoát hoàn toàn được. Trái lại, nếu
chỉ vì chút lợi mà bỏ quên Phật đạo thì lại dắt nhau quanh quẩn trong vòng sanh
tử luân hồi. Như vậy phát Bồ đề tâm muốn hướng dẫn tha nhơn trước hết hành giả
phải tự hoàn thành nhân cách của con người, nhân cách ấy nhà Phật gọi là Bồ tát
hạnh. Mọi việc làm với tâm niệm phục vụ chúng sanh, vì lợi ích chúng sanh đều
gọi là thành quả của Bồ tát hạnh. Nếu độ sanh, hành thiện mà quên mất tâm Bồ đề
tức chính là ma nghiệp.
Thỉnh thoảng chúng ta cũng thường giúp đỡ mọi người với khả năng
có thể của mình, nhưng ít ai làm được việc đó với tâm Bồ đề. Khi giúp người, bố
thí cho kẻ khác của cải gì chúng ta nghĩ như vậy là mình đã phát Bồ
đề tâm. Nhưng không, những việc làm đó phần nhiều vì danh, vì lợi hoặc cao hơn
là vì lòng trắc ẩn! Có mấy ai bố thí với tình thương tuyệt đối: “Khi cho
mà không suy nghĩ, không đòi hỏi điều gì trả lại, không hối tiếc hay không phân
biệt một cái gì thì đó mới gọi là tuyệt đối”. Thường ít thấy ai làm được như
vậy. Chỉ thấy bất cứ cái gì cho ra cũng hy vọng được trả lại, đôi lúc muốn đạt
lại nhiều hơn là khác. Sở dĩ như vậy là không có năng lực Bồ đề tâm điều động.
Ngày xưa, vua Lương Võ Đế hỏi Tổ Bồ Đề Đạt Ma: “Trẫm từ khi lên
ngôi đến nay thường cất chùa, chép kinh, độ tăng ni không biết bao nhiêu, vậy
có công đức gì chăng? Tổ đáp: đều không có công đức. Bởi những việc làm ấy là
nhơn hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi trời, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng
phải thực. Nhơn hữu lậu thì gây phước hữu lậu. Và như vậy thì không đạt đến quả
vị giải thoát. Mọi việc làm, hành động không đưa đến giải thoát đều gọi chung
là “ma nghiệp”.
Đơn cử một việc như trên chúng ta thấy rằng làm bất cứ việc gì
dù đó là phước đức, nhưng không có tâm Bồ đề chủ đạo thì rốt cuộc
vẫn không mang lại lợi ích – cái lợi ích cần thiết cho sự giải thoát. Sự thật,
cùng một hành động, cùng một cái nhìn, nhưng sở dĩ khác nhau là ở chổ dụng tâm
của con người. Trong cuộc sống, trong hành động, trong suy nghĩ thì chữ tà và
chữ chánh chỉ cách nhau bằng một mảy tơ sợi tóc, cán cân đo lường chánh và tà
đó không khác gì hơn là sự tỉnh giác nơi tâm hành giả. Vì vậy, cũng có lắm
người đã phát tâm song lại để quên mất.
Chúng ta phải có một chút tự hào rằng đã đứng vào trong
hàng ngũ xuất gia là ít nhiều chúng ta đã phát Bồ đề tâm, nhưng tâm ấy đang ở
buổi ban sơ, rất mong manh nên rất dễ thối thất. Vì vậy phải nuôi dưỡng tâm Bồ
đề, hay nói khác là luôn tỉnh giác duy trì bóng dáng của đức Phật mọi nơi sinh
động của nội tâm, lúc đó chắc chắn chúng ta sẽ không hành động bất luận việc gì
mà Phật tâm không cho phép.
Ai chưa phát tâm nay phát, ai đã phát rồi nay tăng trưởng, ai đã
tăng trưởng nay tiếp tục. Đừng mặc cảm khinh lờn biếng nhác, đừng chần chừ khi
già mà luống uổng một đời. Như mài dao và trồng cây; dao đùi mài lâu sẽ bén,
cây trồng lâu sẽ bám rễ sâu, chớ thấy đùi, thấy cạn mà không mài, không
trồng thì sẽ trở thành vô dụng. Nguyện rằng quyến thuộc Bồ đề từ
nay kết hợp, liên minh sen vàng từ đây tương giao. Trong tay ai cũng có sẵn bản
đồ, vấn đề còn lại hãy mạnh dạn, tinh tấn cất bước đi lên:
“Mục đích có sẵn rồi
Nào phải vọng xa xôi
Dặm trình thong dong bước
Hoa trắng nở ven đồi”.
Nào phải vọng xa xôi
Dặm trình thong dong bước
Hoa trắng nở ven đồi”.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]