Một người tu
khổ hạnh không quần áo tên là Kassapa tình cờ gặp Đức Phật đang đi khất thực
trong một khu dân cư, đấy là bối cảnh của bài thuyết pháp trên đây. Có lẽ người
tu khổ hạnh Kassapa đã thắc mắc từ lâu trong lòng về sự vận hành của khổ đau,
cho nên khi vừa gặp được Đức Phật liền xin Ngài giải thích cho mình về sự thắc
mắc ấy. Kassapa phải nài nỉ đến ba lần thì Đức Phật mới chấp nhận, vì lúc ấy Ngài
đang đi khất thực không thuận tiện để bàn luận về giáo lý.
Tuy Kassapa cho biết là thắc mắc nêu lên không có gì trọng đại, thế
nhưng sự thắc mắc ấy thực sự hàm chứa những gì thật căn bản trong giáo lý Phật
giáo: đó là khái niệm và sự vận hành của khổ đau. Thật vậy nếu không thấu triệt
được khổ đau là gì và sự vận hành của nó trong thế giới này ra sao thì quả thật
khó có thể tự cho mình là hiểu được giáo lý Phật giáo. Thật thế, bản chất sâu
xa của Khổ đau (Dukkha) trong thế giới ta-bà đã được nêu lên ngay trong bài thuyết
pháp đầu tiên của Đức Phật. Thế nhưng thói thường chúng ta chỉ nhìn thấy khổ
đau trong thế giới này dưới một vài biểu hiện thật thổ thiển có tính cách hời hợt
bên ngoài mà thôi, trái lại chúng ta có xu hướng một mặt quay lưng lại với khổ
đau và một mặt luôn hướng vào những ảo giác của hạnh phúc mà chúng ta không bao
giờ nắm bắt được. Tóm lại mưu cầu hạnh phúc cũng chính là một cách gián tiếp thừa
nhận khổ đau đang bàng bạc trên thân xác, trong tâm thức và chung quanh chúng
ta mà chúng ta không hề hay biết. Vậy khổ đau là gì?
Theo Phật giáo khổ đau là tất cả những gì bất toại nguyện kể cả những
xúc cảm dưới mọi hình thức mà tất cả chúng sinh phải chịu đựng trong cuộc sống.
Những Khổ đau (Dukkha) đó đuợc chia làm ba thể loại hay ba "cấp bậc"
khác nhau:
- Thể loại thứ nhất là khổ đau của khổ đau (dukkha dukkha) tượng
trưng cho những khổ đau đơn giản, thô thiển và dễ nhận thấy nhất, đó là những
đớn đau trên thân xác và trong tâm thức của mỗi cá thể. Nếu như có ai cảm thấy
mình luôn được hạnh phúc, khỏe mạnh và giàu sang, không hề biết khổ đau là gì,
thì cứ nhìn vào những người thân chung quanh đang đau ốm hoặc nghèo đói, hoặc
bước ra đường để trông thấy một tai nạn lưu thông hay thấy một người điên đang
múa may ca hát, hoặc vừa đi vừa mãi nhìn hai người đang đánh nhau giữa đường mà
ta suýt va đầu vào một gốc cây, v.v..., thì đấy là những khổ đau của khổ đau.
Ngoài ra khổ đau của khổ đau còn thể hiện dưới một hình thức khác nữa, thí dụ
khi đã nhận thấy được những khổ đau như vừa kể (và cả những khổ đau của hai cấp
bậc sắp được trình bày sau đây) và cố gắng tìm mọi cách vượt thoát, thì sự cố
gắng vượt thoát những thứ khổ đau ấy cũng thuộc vào loại khổ đau của khổ đau.
- Thể loại thứ hai là khổ đau vì sự đổi thay (viparinama
dukkha), tức là khổ đau vì bản chất vô thường của mọi hiện tượng. Tất cả mọi
hiện tượng cấu hợp nhất thiết đều vô thường, và đã là vô thường thì tất là khổ
đau. Thân xác và tâm thức của mình cũng như của tất cả các chúng sinh khác đều
là những thứ cấu hợp, và vô thường thì không buông tha bất cứ một hiện tượng
cấu hợp nào. Có ai lại không ước mong được trẻ đẹp và khoẻ mạnh mãi mãi, tâm
thức luôn được hân hoan, những người thân thuộc luôn chân thật và trung thành
với mình, các vật sở hữu mà mình trân quý không bao giờ bị hư hỏng, lỗi thời
hay bị mất cắp và môi trường sống chung quanh luôn thuận lợi? Thế nhưng tất cả
những hiện tượng ấy đều vô thường và bất định. Sự kiện cảm nhận được tính cách
vô thường và phù du ấy gọi là khổ đau vì sự đổi thay.
- Thể loại thứ ba gọi là khổ đau của sự hình thành (sankhara
dukkha), tức là khổ đau của sự hiện hữu. Những khổ đau này mang tính cách rất
sâu xa, bao quát và tinh tế do đó rất khó nhận biết, đó là những thứ khổ đau
kín đáo và thường xuyên, phát sinh từ sự bám víu vào ngũ uẩn tức năm thứ cấu
hợp của sự hình thành. Tất cả các thể dạng "hạnh phúc" phát sinh từ
giác cảm - ngũ giác và tâm thần - kể cả thể dạng lắng dịu hay lâng lâng cảm
nhận được qua phép thiền định gọi là thiền na (dhyana) cũng đều là khổ đau
(dukkha). Vì thế cũng xin nhắc thêm là chữ khổ đau không hàm chứa đầy đủ ý
nghĩa của chữ dukkha trong giáo lý nhà Phật, vì khổ đau theo ý nghĩa thông
thường chỉ phản ảnh được ý nghĩa của khổ đau trong hai thể loại thứ nhất và thứ
hai được trình bày trên đây, nhưng không bao hàm được ý nghĩa của khổ đau trong
thể loại thứ ba tức là khổ đau của sự hình thành (sankhara dukkha), bởi vì thể
loại khổ đau này bao gồm cả những giác cảm thích thú mà ta thường gọi là
"hạnh phúc". Do đó một số các học giả Phật giáo Tây phương dùng thẳng
tiếng Phạn dukkha và không dịch chữ này là khổ đau (souffrance).
Kinh Rahogata-sutta (Kinh về sự ẩn cư trong Tương Ưng Bộ kinh -
Samyutta Nikaya, SN 16.11) ghi lại trường hợp một đệ tử nêu lên thắc mắc là nếu
cho rằng năm thứ cấu hợp (tức ngũ uẫn - skanda) là khổ đau thì sẽ mâu thuẫn với
cách phân loại các giác cảm (vedana) thành ba thể loại là thích thú, khó chịu
và trung hòa. Đức Phật nêu lên nguyên tắc vô thường và sự tạo tác lệ thuộc (tức
lý duyên khởi hay sự tạo tác do điều kiện mà có) để chứng minh cho người người
đệ tử thấy rằng "tất cả những gì thuộc các thể loại giác cảm đều thuộc vào
lãnh vực của khổ đau", tức có nghĩa là những cảm nhận hạnh phúc cũng là
những biểu hiện kín đáo của khổ đau, (cũng xin nhắc thêm là giác cảm gồm có cả
tư duy và mọi thứ xúc cảm trong tâm thức).
Đối với những ai không thích cách diễn đạt bao quát và trừu
tượng trên đây, thiết nghĩ cũng nên nêu lên một vài thí dụ cụ thể, chẳng hạn
như một số biểu tượng của hạnh phúc như chiếc nhẫn cưới và những niềm hạnh phúc
trong lòng cô dâu chú rể, hay những ngọn nến cắm trên chiếc bánh sinh nhật,
hoặc tấm gương phản chiếu một thanh niên đang ngắm nhìn chân dụng của mình, hay
một thiếu nữ đang thoa son điểm phấn..., thì phía sau của tất cả những thứ ấy
đều ẩn nấp những khổ đau thật mênh mông kín đáo, và những khổ đau ấy chính là
những thứ khổ đau thuộc vào loại khổ đau của sự hình thành, tức là khổ đau phát
sinh từ sự hiện hữu của chúng ta trong thế giới này.
Xin trở lại với người tu khổ hạnh không quần áo Kassapa. Người
này có thể đã hiểu được khổ đau trong thế gian này là gì, do đó đã từ bỏ tất cả
những giá trị quy ước của thế tục kể cả quần áo trên người để đi tìm sự giải
thoát, thế nhưng vẫn thắc mắc là những khổ đau ấy có phải chính là do mình tạo
ra cho mình hay do người khác tạo ra cho mình, hay chỉ là những hiện tượng ngẫu
nhiên. Thế rồi một hôm Kassapa gặp được Đức Phật khi Ngài đang đi khất thực
trong một khu dân cư. Kassapa liền nhân cơ hội ấy xin Đức Phật giải thích những
thắc mắc đang ray rứt trong lòng mình.
Mặc dù đang ở trong một bối cảnh không
thích nghi cho việc giảng Pháp, thế nhưng trước sự thành tâm muốn hiểu biết của
một người tu hành khổ hạnh, Đức Phật cũng đã trả lời các thắc mắc của người này
dưới hai khía cạnh khác nhau:
- trước hết là trả lời trực tiếp câu hỏi có phải khổ đau là do chính
mình hay do người khác tạo ra cho mình.
- sau đó là giải thích sự vận hành của khổ đau trên một bình diện bao quát hơn, vượt lên trên khuôn khổ những câu hỏi đã được nêu lên.
- sau đó là giải thích sự vận hành của khổ đau trên một bình diện bao quát hơn, vượt lên trên khuôn khổ những câu hỏi đã được nêu lên.
Vậy đối với câu hỏi khổ đau là do chính mình tạo ra cho mình hay
là do người khác tạo ra cho mình, thì trong trường hợp nếu Đức Phật trả lời
rằng một cá thể tự tạo ra khổ đau cho mình, thì cách trả lời ấy có nghĩa là cá
thể mang tính cách bất biến hoặc có một cái gì đó trường tồn trong một cá thể.
Thí dụ một cá thể thực thi một số hành động nào đó tạo ra nguyên nhân mang lại
khổ đau và cũng chính cá thể ấy "đầu thai" trở lại để nhận lãnh hậu
quả phát sinh từ những hành động ấy, thì đấy là một cách gián tiếp chấp nhận
chủ nghĩa trường tồn (còn gọi là thường hằng hay vĩnh hằng - eternalism, tiếng
Pali Sassatavada) hay chủ nghĩa hữu ngã (tiếng Phạn Atman, tiếng Pali Atta).
Ngược lại, trong trường hợp nếu Đức Phật trả lời là một cá thể nhận lãnh khổ
đau do một cá thể khác tạo ra, thì lại rơi vào chủ nghĩa đoạn diệt (hủy diệt,
tận diệt hay hư vô - innihilism, nihilism - tiếng Pali Uccedavada). Như thế tức
là gián tiếp chấp nhận chủ nghĩa duy vật (materialism). Thí dụ một cá thể trong
hiện tại đang phải gánh chịu khổ đau là do một cá thể khác trong kiếp trước đã
thực thi những hành động tạo ra nguyên nhân mang lại những khổ đau ấy.
Trong bản kinh Acela-sutta trên đây cũng như trong rất nhiều bản
kinh khác Đức Phật luôn cho biết là Ngài giữ con đường ở giữa, gọi là Trung
Đạo. Ngài nhắc nhở các đệ tử không được rơi vào hai cực đoan là chủ nghĩa hư vô
và chủ nghĩa trường tồn, vì đấy là những gì sai lầm và vô cùng nguy hại. Đối
với con đường Trung Đạo đứng giữa hai thái cực thì cá thể đơn thuần chỉ là một
dòng chảy hay một luồng luân chuyển (tiếng Pali santati), và khi đã là một dòng
chảy thì tất nhiên sẽ tượng trưng cho một quá khứ, một hiện tại và một tương
lai, cách giải thích đó hợp lý (lôgic) hơn so với chủ nghĩa trường tồn (không
chủ trương có quá khứ) và chủ nghĩa đoạn diệt (không chủ trương có tương lai).
Cũng xin nhắc thêm là Đức Đạt-Lai Lạt-Ma gọi dòng chảy đó là dòng tiếp nối liên
tục (tiếng La-tinh continuum) của tri thức (consciousness). Cá thể chỉ là một
danh xưng mang tính cách quy ước dùng để gán cho dòng tiếp nối liên tục đó.
Khái niệm về sự liên tục trên đây là một yếu tố then chốt góp phần trong việc
giải thích hiện tượng tái sinh và chu kỳ luân hồi của một cá thể, (có thể xem
thêm chủ đề này trong bài viết "Khái niệm về nghiệp trong Phật giáo"
của Hoang Phong trên các mạng Thư Viện Hoa Sen, Quảng
Đức,...).
Ngoài cách trả lời trực tiếp các thắc mắc của Kassapa như trên đây,
Đức Phật còn giải thích sự vận hành của khổ đau một cách bao quát và toàn diện
hơn. Thật vậy, Kassapa nêu lên các thắc mắc của mình về sự vận hành của khổ đau
trong một cấp bậc khá "thấp", trực tiếp liên hệ đến một số thể dạng cá
biệt và chi tiết nào đó, và đấy cũng là lý do cho thấy Kassapa không thể nắm vững
được các nguyên nhân và các tác động sâu kín và phổ quát của khổ đau trong thế
giới ta-bà. Một cách cụ thể xin nêu lên một vài thí dụ như sau:
- khi bước ra đường ta chợt nhìn thấy hai người đang đánh nhau, vừa
đi ta vừa quay đầu nhìn lại khiến ta va đầu vào một gốc cây (khổ đau của khổ đau
- tức khổ đau phát sinh từ giác cảm), để rồi tự hỏi có phải là ta tự làm cho ta
đau đớn, hay hai người đánh nhau làm cho ta phải va đầu vào gốc cây?
- nếu có một tế nào đó trong số hàng tỉ tế bào trong cơ
thể "đột biến" (mutation) và trở thành một tế bào ung thư (khổ đau vì
sự đổi thay - tức vô thường), thì đấy có phải là một thứ khổ đau phát sinh một cách
ngẫu nhiên hay không, hay là do người khác hay một thứ gì khác tạo ra cho mình?
- một thanh niên nhìn vào gương để hãnh diện với vẻ đẹp trai
của mình, hay một thiếu nữ nhìn vào gương vừa nhoẻn miệng cười vừa hơi nghiêng
đầu một tí để làm nổi bật vẻ duyên dáng của mình (khổ đau của sự hình thành -
tức khổ đau của sự hiện hữu và bám víu vào ngũ uẩn), thì vẻ đẹp trai ấy và vẻ
duyên dáng ấy có phải là do họ tạo ra cho họ, hay đấy chỉ là những sự "may
mắn" ngẫu nhiên, và cũng nên hiểu thêm là cả hai trường hợp đều là những
biểu hiện của "khổ đau" thuộc vào thể loại khổ đau của sự hình thành.
Khi đã lạc vào chi tiết như trên đây thì sẽ khó thực hiện được
một tầm nhìn bao quát. Do đó Đức Phật không trả lời trực tiếp từng thắc mắc của
Kassapa mà chỉ trả lời là "Khổ đau không phát sinh giống như thế".
Đồng thời Ngài nêu lên nguyên tắc vận hành chung của tất cả mọi hiện tượng
trong vũ trụ gọi là sự tương liên, tương kết và tương tạo của mọi hiện tượng
(interdependence) còn gọi là sự tạo tác do điều kiện mà có (conditioning co-production)
hay lý duyên khởi. Có lẽ chính vì thế mà Môhan Wijayaratna đã dịch tựa của bản
kinh này là "Sự tạo tác do điều kiện" (Conditioned Co-production) để
tránh chữ Acela có nghĩa là trần truồng không quần áo (?).
Dựa trên nguyên tắc vận hành đó của tất cả mọi hiện tượng trong vũ
trụ Đức Phật chọn ra mười hai biến cố liên kết với nhau mà kinh sách Hán ngữ gọi
là thập nhị nhân duyên để giải thích cho Kassapa về sự vận hành của khổ đau,
tức đấy là chu kỳ của sự hiện hữu hay là vòng luân hồi trong thế giới này. Hơn
thế nữa, Đức Phật còn vượt xa hơn các câu hỏi của Kassapa bằng cách giải thích
thêm về quá trình đảo ngược của thập nhị nhân duyên để giải thích phương cách
làm cho khổ đau phải chấm dứt. Bản kinh tuy thật ngắn và được thuyết giảng trong
bối cảnh mà mọi người đang khất thực, thế nhưng thật vô cùng sâu sắc và trọn
vẹn.
Trọn vẹn cả đến sự giác ngộ và quyết tâm tu tập của một người tu
khổ hạnh không quần áo hằng mưu cầu tìm kiếm sự thật. Sau khi được Đức Phật giải
đáp những thắc mắc cho mình, Kassapa "rút lui vào nơi cô quạnh, luôn giữ
sự cảnh giác và hăng say tu tập" giúp cho mình nhanh chóng đạt được thể
dạng A-la-hán. Đấy là phần kết thúc của bản kinh và cũng là một bài học cho mỗi
chúng ta. Thật vậy, khi đọc một số bài viết hay khi nghe một số bài giảng tán dương
Phật Pháp cũng có thể khiến cho chúng ta cảm thấy hãnh diện hay thích thú trong
chốc lát, hoặc khi nghiên cứu một số kinh sách hay các tập luận giải về giáo lý
cũng có thể mang lại cho chúng ta một số hiểu biết nào đó, thế nhưng sau khi đọc
xong hay nghe xong thì đâu lại hoàn đấy, chúng ta quay trở lại với những sinh
hoạt hằng ngày để tiếp tục đắm mình vào sự vận hành của guồng máy khổ đau.
Phật giáo là một tôn giáo tích cực, đòi hỏi sự can đảm và lòng quyết
tâm. Chúng ta có đủ sức bắt chước một người tu khổ hạnh trần truồng từ bỏ những
giá trị của thế tục như Ayasmanta Kassapa hay không, hay là chúng ta chỉ biết
lo nghĩ đến việc mua sắm những quần áo đẹp? Hãy thắc mắc và ray rứt như Ayasmanta
Kassapa về những vấn đề trọng đại hơn, Đạo Pháp sẽ giải tỏa cho chúng ta những
thắc mắc và những ray rứt ấy. Hãy quyết tâm và hăng say tu tập như Ayasmanta
Kassapa, sự Giác ngộ sẽ mở rộng cửa để chờ đón chúng ta.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]