“Chỉ
là nắm tro” không phải là
một bài kinh trong kho tàng Phật điển, mà nó là một thực tế. Thực tế ấy tôi đã chạm
mắt, đã sờ mó được. Từ đó tôi có một cảm nhận riêng, xin được chia sẻ với tất
cả các bạn đồng tu nắm tro này.
Chúng ta ít nhiều đã đánh mất cả một quãng đời của mình trong phiền lụy, khổ
đau. Cuối cùng tứ đại này không mang theo được vì nó chỉ là nắm tro, chỉ mang
theo nghiệp mà thôi. Sao ta không tự hỏi vì cái gì mà ta tạo nghiệp, vì ai mà
ta tạo nghiệp ? Vì nắm tro mà tạo nghiệp ! Có vô lý không. Phải chi vì vàng vì
ngọc mình tạo nghiệp cũng được đi, nhưng vì nắm tro mà tạo nghiệp thì oan uổng
quá. Tạo nghiệp để mưu cầu hạnh phúc, không ngờ lại chuốt quả khổ đau. Bởi vì
ranh giới giữa hạnh phúc và khổ đau nằm ở chỗ nào, chúng ta không biết được.
Chẳng hạn trời đang nóng mình thèm ăn kem.
Ăn được một cây kem thật tuyệt vời, có thể gọi là hạnh phúc. Ăn thêm một cây
nữa, cũng còn hạnh phúc. Thêm một cây nữa thì… hết hạnh phúc, bởi vì nó sắp nôn
ra đây nè. Nếu ăn kem là hạnh phúc thì càng ăn càng hạnh phúc, ăn một cây hạnh
phúc chỉ có một, ăn hai cây hạnh phúc nhân đôi, ăn ba cây hạnh phúc nhân ba.
Tại sao ăn ba cây lại hết hạnh phúc ? Thì ra chúng ta đã hiểu lầm về hạnh
phúc. Hạnh phúc là gì ? Là vừa lòng. Tạm định nghĩa ngắn gọn như vậy đi.
Mình cho rằng cái gì vừa lòng, thích thú,
thỏa mãn là hạnh phúc, mà không biết rằng cơ thể chúng ta, tâm tư chúng ta
không bao giờ thỏa mãn được hết. Khi tham là cứ muốn thêm, mà sự tiếp nhận của
thân tứ đại có chừng mực. Đến lúc nó không tiếp nhận được nữa, mà nghiệp tham
vẫn lôi kéo, thế là có sự xung đột giữa thân và tâm. Như vậy là mất hạnh phúc.
Phật dạy các pháp chỉ là duyên sinh thôi,
chứ không có cái gọi là chân thật trong đó. Chúng ta luôn mong muốn mình sống
thì phải được vừa lòng hoài, nhưng các duyên không biết chuyện ấy. Nó cứ đến cứ
đi, cứ họp cứ tan theo cách của nó. Mình không vừa lòng thì thôi, nó không
chiều mình. Cho nên rốt lại hạnh phúc không có thật. Nó chỉ là ảo giác của cảm
thọ.
Cảm thọ có ba :
Một
là thọ khổ. Khi gặp những
cảnh trái ý, nghịch lòng chúng ta không thích, gọi là thọ khổ.
Hai
là thọ lạc. Gặp những
cảnh vừa ý thuận lòng, chúng ta thích thú sung sướng, gọi là thọ lạc.
Ba
là thọ không khổ không lạc.
Khi gặp cảnh bình thường, chúng ta cũng thấy bình thường, gọi là thọ không khổ
không lạc.
Trong ba cái thọ này, có một số người
thích thọ bình thường. Tại sao ? Vì họ bảo có vui thì có khổ. Do sợ khổ
nên không dám nhận vui, Lo xa như thế. Thì ra vì né cái khổ mà tránh cả cái
vui, chớ không phải giác ngộ cái vui tạm bợ của thế gian vốn không thật. Do đó
mà chọn thọ bình thường. Nhưng Phật nói rõ thế này: Ba cái thọ đó đều vô
thường, ngay cả thọ bình thường cũng không thường.
Tóm lại, có thọ là có khổ.
Chẳng hạn bây giờ mình không buồn cũng không vui, nhưng có chuyện buồn tới mình
sẽ buồn. Chúng ta chọn cái bình thường, nhưng ngoại duyên không mãi bình thường
được, nó luôn thay đổi.
Ngoại duyên đến từ bên ngoài,
chúng ta không thể chủ động được. Trong toàn bộ đời sống, con người chỉ chủ
động một phần, còn lại phần lớn là bị động bởi các duyên bên ngoài. Như thời
tiết tốt chúng ta thấy bình thường, dễ chịu, nhưng nếu nước lụt lên thì sao?
Khổ liền. Các tỉnh miền Trung, miền Tây Nam bộ lụt hoài, dân mình cứ phải sống
theo con nước, hoàn toàn không thể chủ động được. Đâu có ai muốn lụt, nhưng
nước vẫn cứ dâng. Đó là duyên bên ngoài. Đến duyên bên trong lục phủ ngũ tạng
của chúng ta cũng thế. Có ai muốn bệnh đâu, mà sao vẫn cứ bệnh. Già có bệnh của
già, trẻ có bệnh của trẻ. Ngày nay trẻ đã bệnh ké những bệnh của người già. Như
vậy thân của mình mà mình nói nó không nghe, biểu đừng bệnh mà vẫn cứ bệnh. Rõ
ràng chúng ta mất quyền tự chủ đối với thân tứ đại này rồi. Cho nên Phật bảo thân
này không phải của mình.
Đã không phải của mình, tại sao người ta
nặng nhẹ một chút mình lại nổi sùng ? Chúng ta khổ vì chúng ta lầm. Đơn giản
vậy thôi. Hàng xóm mích lòng nhau là vì hiểu lầm. Phật nói thân này là duyên
sinh, do bốn chất đất nước gió lửa hợp thành, đó là phần thân, còn phần tâm là
do nghiệp dẫn. Chúng ta tạo nghiệp, rồi nghiệp quay trở lại lưu dẫn chúng ta
thọ sanh. Cho nên đời quá khứ chúng ta tạo nghiệp gì nhiều, đời sau sanh ra rất
quen thuộc với nghiệp ấy. Thương ai nhiều, ghét ai nhiều, nhắc ai nhiều thì đời
sau được gặp lại thôi.
Nếu đời quá khứ ta đã là
người tu, đời này sanh ra thấy chùa muốn tu ngay. Đời quá khứ là ca sĩ, đời này
nghe nhạc là hát. Hát rất hay mà không cần ai chỉ vẽ, vì đã huân tập rồi. Nhiều
thiên tài xuất hiện dưới dạng thần đồng, người ta bảo là thiên tư, thật ra nó là
dòng nghiệp được nối tiếp từ đời trước.
Tuy nhiên, đạo Phật bảo nghiệp
cũng không thật, có thể thay đổi được. Bởi vì nó do duyên tạo tác, luôn thay
đổi sinh diệt. Nếu thật thì nó còn hoài và không thể sửa đổi. Song nó luôn biến
dịch nên chúng ta có thể thay đổi được. Khi mê chúng ta tạo nghiệp xấu, nhưng tỉnh
rồi không tạo nghiệp xấu nữa, mà tạo nghiệp thiện. Ví dụ chúng ta mê nên có
tham sân si, nếu sáng suốt tỉnh táo ta sẽ không thèm tham sân si nữa. Điều đó
có người đã làm được, như các bậc thánh nhân, cao tăng xưa cũng như nay. Nhờ thế
chúng sanh mới có thể tu thành Phật.
Có người thấy tiền thích,
có người thấy tiền không thích vì họ không có nhu cầu. Nhu cầu thường không
nhất định, do quan niệm và sở thích của mỗi người mà phát sinh. Muốn bớt tham
thì bớt nhu cầu. Muốn không tham thì không có nhu cầu. Vậy thôi. Cho nên tham
tiền hay không tham tiền, chúng ta làm được, nếu muốn. Giữa hai nghiệp thiện và
ác, mình muốn làm ác cũng được, muốn làm thiện cũng được. Làm ác thì nghiệp ác
dẫn đi trong đường ác. Làm lành thì nghiệp thiện dẫn đi trong đường lành. Tất
cả đều do chúng ta quyết định.
Có người thắc mắc, khi chết
rồi đi về đâu ai mà biết được ?
Về vấn đề này, chúng ta có
thể lý giải sự có mặt của nghiệp qua những gì mình thấy biết trong đời hiện tại.
Như một gia đình, cha mẹ sanh ra ba đứa con. Chúng được chăm sóc như nhau, mà
ba đứa không đứa nào giống đứa nào. Chúng khác nhau trên mặt mày, trên tánh tình.
Tại sao cùng cha cùng mẹ, cùng sống trong một môi trường, cùng nhận sự yêu
thương chăm sóc như nhau mà lại khác nhau ? Nhiều đứa bé mới hai ba tuổi
đã thể hiện những đường nét riêng của nó. Đường nét riêng này ở đâu ra ?
Đâu có chuyện khơi khơi mà ra, chứng tỏ nó có chủng tử nghiệp từ đời trước.
Thêm điều này nữa, chúng
ta vừa thấy người nào đó thì mến liền, mặc dù chưa nói chuyện với nhau lần nào.
Người ấy có thể dễ mến với mình, nhưng chưa hẳn dễ mến với người khác. Cũng thế,
trong trường hợp đối nghịch. Vừa thấy người đó lần đầu, bỗng nhiên ta dị ứng
ngay, thì biết oan nghiệp tới rồi. Cho nên lúc ra đi, tâm mình bình an không
vấn vương việc gì, không sợ hãi việc gì, không lưu niệm việc gì thì đi thanh
thản, theo phước duyên thọ thân sau tốt đẹp. Ngược lại, trước lúc ra đi chúng
ta sợ hãi, hoảng loạn, lo nghĩ đến con cháu thì thọ thân sau trong sự trói buộc
của nghiệp lực đời trước.
Người Phật tử hiểu đạo rất
sợ tạo nghiệp. Thân này không giữ được vì nó là nắm tro, nhưng nghiệp sẽ quyết
định cho vận mệnh nhiều đời của mình. Chúng ta không đầu tư vào chuyện chăm
chút nắm tro, mà lo chuyển hóa tu tập ba nghiệp của mình. Hơn thua nhau từng tiếng
là tạo nghiệp bất thiện. Từ đó lưu vào tâm thức những hình ảnh căm tức sân hận,
nguyện gặp lại để trả thì rất nguy hiểm. Đó là một trở ngại trong tiến trình
tái sinh, nếu chúng ta chưa giải thoát được.
Ở đây mục đích của người tu thiền là giải
thoát sanh tử, nhưng chúng ta không dám đi quá xa với mức độ tu tập thực tế của
mình, chỉ mong quý Phật tử chuyển được nghiệp bất thiện thành nghiệp thiện,
định tĩnh trước phút lâm chung để có được hướng đi tốt. Sức mạnh của nghiệp rất
đáng sợ. Ví dụ người nữ có tật hay cằn nhằn. Thật ra họ không muốn cằn nhằn nhưng
khi đã thành nghiệp rồi, vừa gặp chuyện không hài lòng thì cằn nhằn. Cằn nhằn
mà không hay mình đang cằn nhằn. Cho nên mới nói bị nghiệp lôi, không kiềm chế
được. Cũng như bên nam có tật uống rượu. Uống quen không uống thấy buồn, thấy
thèm. Đặc biệt những lúc căng thẳng, bức xúc là đi kiếm rượu uống. Nhiều vị dư
biết uống rượu là uống chất độc mà đã nghiền rồi thì không cưỡng lại được.
Thế nên vị nào lỡ ghiền rượu
mà muốn bỏ thì xin đừng đi ngang quán rượu. Quán rượu đâu có tay mà kéo quý vị,
nhưng cái nghiệp nó sẽ kéo. Nghiệp là gì ? Là thói quen. Thật đơn giản mà
không đơn giản chút nào. Tại sao ? Như nghiệp uống rượu, nghiệp đánh bài,
nghiệp hút thuốc… muốn bỏ không phải là chuyện đơn giản.
Lại nữa, chúng ta không ai
thích phiền não nhưng luôn luôn sống trong phiền não.
Tại sao ? Tại quen
rồi, bỏ không được. Ai bắt chúng ta phiền não ? Ta không có câu trả lời vì
ta không dám nhận lỗi về mình. Bây giờ muốn giải trừ phiền não, nhất định phải
truy nguyên cho ra nguồn gốc của nó. Phiền não từ mình mà ra. Do si mê tăm tối
nên ta tạo nghiệp, nghiệp quay trở lại làm tăng trưởng vô minh. Cứ thế xoay vần
gốc vô minh càng lớn, nghiệp lực càng mạnh, chúng ta càng bị nó sai sử, chớ không
ai bắt mình cả. Đối với phiền não, nhà Phật gọi nó là giặc. Muốn trừ giặc,
trước tiên ta phải phát hiện nó thật sớm, sau đó kiên quyết đuổi sạch, không
khoan nhượng mới yên ổn được. Vừa nổi nóng lên ta phát hiện ngay, một tên giặc
vừa ló đầu ra, dùng gươm trí tuệ chém nhanh. Tự nói giận làm gì cho mệt, không
thèm giận. Đó chính là tu tập, là chuyển hóa nghiệp. Việc này cũng phải có lực,
nhà Phật gọi là đạo lực. Muốn có đạo lực mạnh phải liên tục huân tu, không đợi
gặp cảnh mới tu.
Cái gan của chúng sanh lớn
tợn lắm, rất sợ khổ mà chuyên lao vào nhân khổ. Phật nói Bồ-tát sợ nhân chúng
sanh sợ quả. Nếu thấy phiền não mệt quá thì đừng thèm phiền não. Thí dụ hồi xưa
mình nói chuyện với ai, bất đồng ý kiến là bắt đầu nổi sùng trong bụng, tức thiệt
là tức. Bây giờ thấy tức mệt quá mình không tức nữa. Vậy thôi. Ngoài cách đó ra
không còn cách nào hữu hiệu hơn. Có người bảo làm không được. Được chứ ! Cứ
không thèm tức thử coi ai làm gì mình. Thật ra chúng ta không chịu buông cái sân
giận mà lại đuổi theo nó, chơi với nó, hòa nhập làm một với nó. Trong tâm cứ
bám cứng theo đối tượng làm nhân cho sự tức tối thì làm sao hết tức được.
Như có vị ngồi đây trong lòng đang buồn
bực chuyện riêng. Lẽ ra hôm nay không đi nghe pháp mà tại sùng bà hàng xóm quá,
đi cho khuây khỏa. Nếu chúng tôi chia sẻ với quí vị rằng đừng thèm sùng bà hàng
xóm đó nữa, bỏ đi. Quí vị đồng ý thực tập như vậy. Bà ta đâu có nhảy vô bụng
của quí vị cản lại điều ấy. Thành thử do ý chí, do quyết định sáng suốt, do sự
thực hành của chúng ta thôi.
Tất cả trạng thái tâm khổ đau là do ta tạo
ra, ta lầm chấp. Người kia có quyền thích ngọt, mình có quyền thích mặn, không
thể bắt buộc người kia thích giống mình. Cũng không vì người kia thích ngọt, mà
ghét người ta. Điều này vô lý. Tất cả các pháp do duyên sinh, không có duyên nào
giống duyên nào, chỉ giống nhau ở chỗ chúng đều là tướng sinh diệt. Tướng sinh
diệt thì không chân thật, có gì ta lấn cấn với nhau hoài, cuối cùng không ai
hơn ai, cũng không ai tồn tại.
Chỉ một thứ tồn tại gây khó cho mình, đó
là nghiệp ta đã tạo. Thế mà ta lại quên, cứ tạo hoài. Chính nghiệp tham sân si
quyết định cuộc đời tiếp tục của chúng ta. Trong một đời này mình khổ đã ngán
rồi, bây giờ gieo nhân để thọ thân nữa thì được khổ nữa. Một lần có thân là
khổ, Phật bảo bốn thứ khổ cơ bản của thân là sanh lão bệnh tử, không ai tránh
khỏi. Đó là chưa kể tới thành bại hơn thua trong cuộc đời. Thật ra cái chết
không đáng sợ, nhưng vì mình mê thân nên sợ chết. Sống thì khổ mà lại không muốn
chết. Vậy chớ sống để làm gì? Sống để khổ. Có lạ lùng chưa!
Trở lại vấn đề nắm tro. Khi đang sống đây,
dù chúng ta thành công vinh quang cách mấy, cũng không giữ được. Vì sự thành
công ấy phải gắn liền với chủ nhân, mà chủ nhân sẽ không còn nữa để nhận sự
vinh quang kia. Chủ nhân theo vô thường mà trở thành nắm tro. Tội gì vì một nắm
tro mà ta khổ triền miên như vậy. Sao không ngay đây thanh thản, hạnh phúc,
bình an, để khi trở về với cát bụi, ta chỉ còn lại sự thanh thản, bình an chớ
không phải là nghiệp thức mênh mang. Giả như còn nghiệp chúng ta cũng thọ
nghiệp lành, tái sanh vào cõi lành. Nếu hết nghiệp chúng ta không còn đi trong
sanh tử, vĩnh viễn thoát khỏi khổ đau.
Chúng ta cũng nên như thế, sống giữa trùng
trùng duyên sinh tương đối, thân này còn không giữ được huống là mọi việc chung
quanh. Cho nên người tỉnh ngộ sớm chừng nào thì khỏe chừng đó. Tỉnh ngộ chậm
hoặc không khéo tỉnh ngộ thì sẽ khổ đến nhắm mắt. Chẳng những khổ đến nhắm mắt
mà cho tới lúc tái sinh vẫn tiếp tục khổ. Chúng ta buông xuống hết những buồn
phiền, giận hờn, thương ghét để sống đúng trở lại bản vị của mình. Bên cạnh
chùm duyên sinh còn có tánh giác.
Tánh giác ấy chúng ta hiện có đủ, bình
đẳng như nhau và vĩnh cửu bất sanh bất diệt. Chúng ta luôn luôn nghe, luôn luôn
thấy rõ ràng, đó là tánh Phật thường biết nơi mỗi chúng sanh. Tánh này không ưu
tư, không lao lự toan tính, thường tại như vậy. Chỉ khi buông hết các duyên, ta
mới nhận ra mình có tánh giác hiện hữu. Bấy giờ còn thân tứ đại cũng vui mà
không còn thân tứ đại cũng vui, sống cũng vui mà chết cũng vui.
Trong nhà Phật, người tu giỏi là người
buông xả giỏi. Buông tới lúc trong lòng trống rỗng, không còn gì để buông nữa
thì sống chết tự tại, vĩnh viễn an vui. Đó là những gì chúng ta cần chia sẻ với
nhau.
|
Đệ tử cũng nghiệm rằng tất cả cũng trở về cát bụi .
Trả lờiXóaKính chúc Thầy an lạc .
Nam Mô A Di Đà Phật .
Bạn hữu NGUYỄN HOÀNG nói rất chí lý...Hoan hỉ bạn đã đến thăm....
Xóa