"Làm thinh như Chánh Pháp
Nói năng như Chánh Pháp"
Từ hiện tượng nầy sanh hiện tượng khác
Những đau khổ nào mà con người còn diễn tả được, còn
quan niệm, còn sờ mó được, thì cái đó chưa phải tột cùng của khổ đau. Cái khổ
mà con người đang gánh chịu chỉ là kết quả tất nhiên của một động cơ, nó đẩy
đưa con người từ hiện tượng nầy sang hiện tượng khác, chìm đắm trong đêm dài
tăm tối, lặn hụp trong biển si mê không thể nào thoát ra được, cũng chỉ vì sự
chi phối tác động và cai trị của một chủ tể đó là Vô Minh.
Vô minh là không sáng suốt, tăm tối, không nhận ra
được chân lý và khổ não, nó không là gì cả, chỉ là bóng dáng của một giả thể,
nhưng con người đã tổng hợp và cho đó như một thực thể, ôm ấp, gắn vào đó những
nhãn hiệu, khuôn mẫu mà thực ra không phải là nó. Chưa một lần nào ta chịu nhìn
ngắm khám phá ra nó và nếu có chăng đi nữa thì sự nhìn ngắm đó, cũng chỉ là
nhìn ngắm để rồi ngắm nhìn, chứ chưa thật sự đặt vấn đề giải quyết và tìm
phương vượt thoát khỏi nó.
Sự nhận thức của con người vốn đã bị bóp méo và không
thật, khi nhìn ngắm và soi xét về một đối tượng, con người đã không nhìn bằng
ánh mắt của như thật, của trí tuệ mà bằng sự chi phối, dẫn dắt, tác động của vô
minh. Không một sự nhìn ngắm nào mà không khởi lên những phân biệt, chấp trước,
nắm bắt, vì khi phân biệt phải có chủ thể khách thể, cái nhận thức và cái bị
nhận thức, cái ta và cái của ta. Con người luôn nắm bắt thực tại và không sự
nắm bắt nào mà không tạo nên khổ đau, rên rỉ, thất vọng. Bởi lẽ tất cả mọi sự
vật đều biến hóa, ảo tưởng, không thật, thì sự nắm bắt ấy đồng nghĩa với sự
biến dạng mất mát.
Khi ý thức nảy sinh sự ham muốn, thì động niệm theo đó
phát sinh, khi động niệm sinh, tức khắc ý thức bị phân hai trở thành chủ và
khách, như vậy sự xung đột chắc chắn xảy ra. Nếu sự phân hóa vừa xuất hiện,
thay vì quán chiếu vào tận cùng tâm thức để phản tỉnh vượt thoát những kiến
chấp nắm bắt, dùng trí tuệ vốn sẵn có trong mỗi người để soi sang, thì chúng ta
lại bám vào thế giới trần cảnh, những quan niệm cùng giáo điều cứng ngắt, những
khuôn mẫu đúc sẵn, những trí thức lừa đảo. Khi nào tâm thức còn bị đánh lừa bởi
những gì do chính nó tạo ra hoặc phản chiếu, thì vô minh vẫn còn ngự trị trong
sâu thẳm. Chỉ khi nào lớp vỏ khô cứng đó bị đập vỡ tung, trí tuệ xuất hiện
chiếu rọi trong tận cùng tâm thức, xé tan màn dày đặc của vô minh, thì lúc ấy
nó mới không còn chổ để dung thân.
Ý thức thường trực về khổ đau.
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình,
cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được,
phương pháp hay nhất là đối diện với nó, đương đầu và chấp nhận, sẵn sàng nở nụ
cười hoan hỷ chấn động cả tâm thức, ôm ấp nó vào lòng như ôm một đứa con yêu
quý. Không một sự thoát khổ nào bắt nguồn từ sự xa lánh trốn chạy, cái khổ càng
được nung nấu, un đúc, trui rèn, mài dũa thì cái tâm lại càng tinh luyện, cứng
rắn và vững chãi, thân thể càng bị đày đọa, tim rỉ máu, mắt đẫm lệ, thì tâm
thức mới thể nhập vào sự diệu huyền biến hoá của vũ trụ. Như một con dao được
trui rèn trong lửa, đập phá nhiều lần bởi người thợ rèn, con dao ấy mới có công
năng chặt đứt được sự vật. Nếu một con người không trưởng thành từ trong đau
khổ, con người ấy dễ bị thời gian đào thải. Nếu một con người không đương đầu,
mặc nhiên, chấp nhận, ý thức thường trực về nỗi thống khổ và tìm phương thoát
ra, thì con người đó không thể thoát được khổ đau.
Cuộc đời vốn đầy dẫy sự bất công và đe dọa bởi thực
trạng khổ đau, không một ai dành cho chúng ta sự hạnh phúc bình an và nếu có đi
nữa thì sự bình an do kẻ khác mang đến trao tặng, đều kèm theo điều kiện. Sự
ích kỷ, ngộ nhận, bóp méo sự thật, vốn là một tâm lý nằm sẵn trong mỗi người,
được dịp và đúng thời điểm là con người dán chặt vào đó những nhãn hiệu, những
móc ngoặc, tạo khủng hoảng cho chính mình và đối tượng. Con người tìm mọi cách
để thấy mình hơn kẻ khác, những phương cách lọc lừa, mưu mẹo đều được đem ra
trắc nghiệm, xử dụng. Nhận lấy điều nầy, là sự đau khổ, bất an xuất hiện, dĩ
nhiên không một sự hơn thua nào mà không bắt nguồn từ khổ đau, gây nên khổ đau.
Con người vốn đã không nương tay với nhau khi hành động, khi được dịp họ chỉ
cần chiến thắng, dù sự chiến thắng được xây đắp trên nỗi khổ, nỗi đau của kẻ
khác, dù sự chiến thắng ấy phát xuất từ sự sai khiến của tâm lý phức tạp, trải
qua những xáo trộn trong tận cùng tư tưởng, và do vô minh chủ động. Cho dù sự
chiến thắng ấy có đồng nghĩa với chiến bại, thì trong nội tâm họ vẫn muốn làm
kẻ chiến thắng, và đương nhiên không một sự chiến thắng nào mà không đưa đến mất
mát, đau khổ.
Thông thường những phương cách mà con người dùng để
giải quyết khổ đau là tạo ra những cuộc vui giả tạo, tìm hạnh phúc trong sự bất
chợt, nắm bắt, hoan lạc, trong ly cà phê điếu thuốc, trong khói hương ngây ngất
của cuộc đời, bên những ly rượu mạnh để giải sầu. Thực ra đây chỉ là phương
pháp tạm thời, chứ chưa phải cứu cánh, điều hẳn nhiên không một cuộc vui nào
lại không chóng tàn, không cơn say nào mà không tỉnh. Con người trốn chạy khổ
đau bằng cách tìm vui, nhưng vui lại là nguyên nhân của khổ, khi vui vừa tàn sự
trống trải, cô đơn, chán chường, và điều muốn tiếp tục vui nữa lại dâng cao, cứ
thế đẩy dần ta vào vũng bùn đen tối, chôn chặt trong hố thẳm không biết lúc nào
ra khỏi.
Bùng vỡ của tâm thức
Con đường vượt thoát ra khỏi chính nó là phải nhìn
thẳng, quán chiếu vào lẽ sinh diệt của nó, hãy yên lặng để thấy nó len lõi đi
vào, một khi không tạo được sự tác động gây hấn, thì chính nó sẽ hủy diệt. Thân
phận con người như điếu thuốc đang cháy dần, nếu người hút thuốc muốn tìm thêm
khói cảm trong đó mà hít vào thật nhiều, dĩ nhiên sẽ chóng tàn hơn, và nếu
không hít thì điếu thuốc đang cháy cũng vẫn phải tàn. Vì thân phận con người là
thân phận của bèo mây tan hợp.
Khi sự vật đưọc hình thành để rồi tự nó hủy diệt, một
đóa hoa tươi đẹp đang khoe sắc dưới nắng hồng ban mai nhưng trong đó đang có sự
hủy diệt trong từng phút giây và ngày mai kia hoa sẽ héo tàn rơi rụng theo thời
gian. Thời gian là khởi diểm của tồn tại và là kết quả của diệt vong. Thời gian
được đặt ra để đo lường sự hiện hữu và mất mát, sự liên tục của nó tạo cho con
người cái cảm giác trường cửu, nhưng trong đó sự biến dạng liên tục chi phối,
từ ban ngày chuyển thành ban đêm, từ đêm trở lại ngày, nối tiếp nhau đi qua trở
lại. Cái có và không xuất hiện ở một kết hợp, khi duyên không còn tự tiêu vong.
Nếu không có cái không thì hẳn nhiên không có cái có, và ngược lại sở dĩ chúng
ta trông thấy đưọc cái có thì cũng nhờ cái không bao bọc chung quanh nên cái có
hiển lộ. Nếu sơn hà đại địa nầy chất đầy cả cái có, không một kẻ hở để cái
không xen vào thì sao gọi là có được. Như vậy cái có nương vào cái không, cái
không nương vào cái có, nương với nhau mà thành, duyên với nhau mà hợp " có
thì có tự mảy may, mà không thì cả thế gian nầy cũng không" .
Con người vốn lẩn quẩn trong vòng sanh diệt, chấp có,
chấp không, tha hồ nắm bắt, nhận giả làm thật, lấy mê làm ngộ, đến khi vụt mất
khỏi tầm tay sinh ra tiếc nuối khổ đau, do vì vô minh tạo ra những cảm tưởng mê
mờ. Nếu muốn vượt thoát tử sinh, cần phải quán chiếu vào nội tâm, tìm về uyên
nguyên của giác ngộ, uống ngụm nước đầu nguồn. Giác ngộ không tách rời vô minh
mà có, muốn được điều này cần phải trực nhận vào tận gốc rễ của vô minh, nhận
rõ chân tướng của sự thật trong mọi khía cạnh nhận thức. Vượt lên đối đãi, chấp
trước, phân biệt, kiểm chứng và duy trì nội tâm bằng chánh niệm một cách liên
tục không gián đoạn, không một kẻ hở, chúng ta mới có thể đoạn trừ được vô
minh, vén màn cho sự giác ngộ. Nếu giác ngộ là sự chấn động toàn diện tâm thức
con người, vượt thoát tử sinh, thì vô minh khi chưa giác ngộ vẫn có ý tưởng
ngược lại, đẩy lùi con người vào hố thẳm ngút ngàn của tử sinh. Chỉ cần chúng
ta dốc sức bình sinh xoay chiều thì công năng và kết qủa sẽ trái ngược, cũng
cái tâm nầy chúng ta thành Phật và cũng cái tâm nầy điên đảo tử sinh.
Hoán chuyển đối nghịch
Giác ngộ là sự bùng vỡ của tâm thức, chuyển hoán từ vô
minh thoát ly ra ngoài mọi ràng buộc, không còn niệm phân biệt, hiển lộ nên
chân tâm, bặt hết duyên trần, những kiến giải, quan niệm đều bị vỡ tung khi ánh
sáng giác ngộ chiếu vào soi sáng. Trong Kinh Pháp Cú có đoạn:
Trong
vòng sống chết vô tận
Ta
chạy mãi không nghĩ ngơi
Từ
bào thai nầy sang bào thai khác
Đuổi
theo người chủ ngôi nhà
Chủ
nhà ta phát giác mi rồi
Mi
không cất nhà lại được
Kèo
cột gẫy hết rồi
Mái
sườn sụt đổ hết
Tâm
lìa hết tạo tác
Tất
cả diệt trừ xong.
Cái hoát nhiên đại ngộ là khi nhìn thẳng vào chân
tướng của sự vật, một khi vọng động dừng lại thì cả càn khôn hiển lộ. Điều này
không nằm trong kiến giải mà là sự thử thách cam go, trực nhận không một giây
tách rời, cầm giữ thanh gươm trí tuệ sẵn sàng chặt tan mọi ràng buộc động niệm,
đẩy lùi tất cả đến tận cùng, chuyển hoán sự đối nghịch, trở thành chất liệu
nuôi dưỡng giác ngộ.
Vô mình đã nằm trong sâu thẳm, thì sự tỉnh thức trong
từng niệm đã cắt đứt và cuốn phăng đi chặng đường tồn tại của nó, khi giác ngộ
vụt khởi trạng thái nầy không còn một mảy may tư tưởng, kiến giải, đối tượng.
Chủ thể và khách thể hòa cùng một thể, đó là thể của giác ngộ, dĩ nhiên giác
ngộ không phải tiến trình đi tới của tri thức mà là sự quật khởi nội tâm, buông
bỏ sự níu kéo nắm bắt, vượt thoát những ý thức sai biệt. Sự nối liền giữa vô
minh và giác ngộ như đường tơ kẻ tóc, nếu không nhận ra được đâu là nguồn cội,
thì tự nó là hố thẳm nghìn trùng xa cách, một khi nhận chân ra được thì trong
tích tắt mọi ngăn ngại đều đánh bật ngã. Sự hoát nhiên giác ngộ liền xâm nhập
vào tâm thức, như một làn chớp bất chợt xuất hiện chỉ trong sát na. Trong Pháp
Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:
"
Thiện tri thức đừng trụ bất cứ ở đâu, ở trong ở ngoài, thì lui tới được tự do.
Đừng để tâm chấp trước thì thông suốt hết không gì vướng mắc. Kẻ ngu nếu bổng
chốc trí sáng tâm mở thì với người trí chẳng sai khác.
Thiện tri thức khi chưa ngộ Phật là chúng sanh như ta,
phút chốc ngộ rồi thì ta chúng sanh tức là Phật. Thế mới biết tất cả đều ở nơi
tâm. Vậy sao ta không biết tự nơi tâm thoắt thấy ngay cái bổn tánh chân như. "
Huệ Năng là một chú tiều đốn củi nuôi mẹ, nghe một
người tụng kinh Kim Cang đến câu " Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm " ngài
hốt nhiên đại ngộ. Cái ngộ của ngài không nằm trong suy luận, so đo tính toán,
mà là sự tiếp nhận thẳng vào tâm thức. Càng suy luận càng tách rời chân tâm,
không giúp được gì cho giác ngộ, “khảy mổ cùng một lúc”, hành động nhịp nhàng
ăn khớp trong một thời điểm nhất định, ngộ là ngộ tức khắc, không chần chừ, so
đo phân biệt, và không ngộ là không ngộ chứ không có kiểu nửa tỉnh nửa say.
Ngài
Hương Nghiêm có lần nói: " Ví như có người lơ lững trên miệng vực sâu muôn
trượng, răn cắn vào một cành cây, chân thòng giữa hư không, hai tay không bám
vào đâu được. Lúc ấy có người đi ngang qua hỏi vọng lên, nếu người trên cây mở
miệng trả lời thì rơi xuống vực sâu mất mạng. Nếu không trả lời thì phụ người
hỏi. Trong phút giây nguy kich ấy, người đó phải làm sao? "
Giữa
cái chết và cái sống, giữa cái mê và ngộ, giữa sự trả lời và không, quả thật
lúc ấy không còn gì để mà biện luận, cân nhắc tính toán, hể mở miệng ra để trả
lời thì rơi xuống hố sâu muôn trượng tan thân nát thịt. Lúc ấy chỉ còn "
Làm thinh như chánh pháp, nói năng như chánh pháp ".
Một cuộc sống an lành là khi không còn bị trói buộc
bởi nội và ngoại tại nữa, vì tất cả những dính mắc đều phải tốn công nhọc lòng
tháo gỡ, hể còn phải tháo gỡ thì vẫn còn phiền não, khổ đau. Nếu ở trong tâm
bặt hết duyên trần, ở ngoài không đắm trước, thì không một hành động nào làm
hoen ố được, ung dung tự tại mà bổn thể hoàn toàn vô nhiễm. Điều nầy quả thât
là khó, nhưng tử sinh, luân hồi sống chết vô tận, làm cho chúng ta quá chán
ngán rồi, điều may mắn còn làm được thân người, ngay từ bây giờ nếu không vận
dụng cả bình sanh, xương tủy, máu thịt trong người thì khó mà thoát ra. Buông
bỏ tất cả, theo dõi tâm mình, tỉnh thức trong từng động niệm, những vọng niệm
nào cản trở giác ngộ, cần phải chặt phăng nó đi, duy trì chánh niệm một cách
liên tục, một ngày nào đó giác ngộ sẽ bùng vở. Nếu buông thỏng nội tâm không
kiểm soát, phó mặc cho duyên trần, thì muôn kiếp vẫn phải tử sinh, trôi lăn vô
tận.
Tâm an tịnh
Sự vượt thoát tử sinh tìm về giác ngộ là điều tối cần,
mục đích của Đạo Phật giải phóng con người ra khỏi khổ đau, đạt đến giải thoát
hoàn toàn. Giải phóng là thoát ly ra ngoài mọi đối đãi, không còn dính mắc ở
khía cạnh hay góc độ nào, còn níu kéo thì còn bị trì trệ ứ đọng, buông xả tất
cả. Tâm con người tựa như dòng nước chảy, nó có thể cuốn phăng đi tất cả, nhưng
ngược lại nó vẫn có thể bị ô nhiễm, điều quan trọng cho sự tìm về giải thoát là
phải lắng đọng chính cái ô nhiễm đó. Thường trực quán chiếu không khơi dậy dòng
nước dục, không tạo những chuyển động để ô nhiễm tái sinh, luân lưu nhưng không
nhiễm ô. Dòng tâm thức nếu ngăn chận dễ phát sinh ra những nguy hại, như dòng
nước đang chảy xiết nếu ngăn lại tất nhiên nước sẽ phá bờ, chảy lan tràn. Cho
nên cứ mặc nhiên để nó tuôn chảy, chỉ cần lắng đọng, ý thức một cách liên tục
rõ ràng sự lưu chuyển ấy, tươi mát trong suốt là điều cần thiết cho hành trình
vượt thoát.
Giải thoát không có nghĩa chối bỏ trốn chạy cuộc đời
nầy, vì chỉ trong cuộc đời nầy mới tìm thấy sự giải thoát, bên cạnh khổ đau
phiền não thì giải thoát mới có ý nghĩa tuyệt diệu. Nếu cuộc sống lúc nào cũng
bình an, hẳn nhiên không cần giải thoát và không cần tìm phương vượt thoát. Sở
dĩ điều này phát sinh cũng chính từ sự ràng buộc chìm đắm trong khổ đau. Bồ Tát
mang hạnh nguyện độ sanh, nên quốc độ của qúy ngài là thế giới khổ đau, hể còn
khổ đau thì còn phải giải thoát, ngoài điều nầy ra Bồ Tát sẽ không còn đối
tượng để phục vụ và đất để dung thân. Qúy ngài xuất hiện cũng chính vì cuộc đời
đầy dẫy khổ đau, khi không còn khổ đau lúc ấy không còn qúy ngài nữa, tự động
biến mất.
Nếu tâm con người được an tịnh trong mọi chiều hướng,
có nghĩa chúng ta đã giải thoát ở một vài khía cạnh nào đó, ít ra sự bình an
trong cuộc sống. Giải thoát không có nghĩa vượt thoát được tử sinh, khi chưa
thật sự thể nhập vào uyên nguyên của nó. Đó chỉ là một chặng đường chứ chưa
phải rốt ráo cho một hành trình, đó chỉ là nền móng chứ chưa phải ngôi nhà thật
thể, đó chỉ là cánh cổng để hành giả bước vào ngôi nhà giải thoát, vào được hay
không, an trú lâu dài hay không, đều tùy thuộc vào mỗi người và đó mới là vấn
đề trọng đại.
Có những lúc trong một cuộc hành trình dài, ta hay
dừng lại để nghỉ ngơi, nhưng do mãi vui hay lầm tưởng đó là cứu cánh, nếu không
dụng tâm rốt ráo ta vẫn còn sự ngự trị của vô minh. An phận và lầm tưởng vẫn là
điều cố hữu trong mỗi chúng ta, nó tạo ra khuynh hướng phụ thuộc biếng nhác,
mặc nhiên. Mặc nhiên trong ý nghĩa chấp nhận trôi lăn trong dòng đời, chứ không
phải mặc nhiên trong ý nghĩa cùng tuyệt của giác ngộ, giải thoát. Chính những
điều ấy tạo nên sự dừng lại bên cổng của ngôi nhà, muốn vào được bên trong,
trước hết và trên hết sự an tịnh nơi tâm thường xuyên ngự trị, không còn dính
mắc nơi ngôi nhà và người đi vào, thể nhập trọn vẹn hòa đồng, không một hình
thái vướng bận nào, dù vi tế cuả tâm thức.
Giải thoát không đòi hỏi nhất thiết cho một tương lai,
quá khứ không níu kéo lại được, tương lai thì quá xa vời, chỉ có hiện thực là
quan trọng, cho nên những tác động cần phải tác động ngay trong hiện tại, ngoài
điều nầy ra tất cả đều trở nên vô nghĩa và không giúp được gì cho hành trình
giải thoát thật sự. Hiện tại là nền móng cho tương lai và quá khứ cũng gắn liền
ngay từ bây giờ, nếu hiện tại còn sự xô bồ, sanh diệt, phân hoá tiếp nối, thì
hẳn nhiên tương lai cũng như vậy. Khi đã gieo nhơn sanh diệt thì quả không thể
sai khác, cho nên cần phải tác động cho một hiện tại không sanh diệt, chỉ khi
nào không sanh mới không bị diệt.
Trong Chứng Đạo Ca có ghi lại cuộc đối thoại hào hứng
của nhà sư Huyền Giác với Lục Tổ Huệ Năng. Huyền Giác mang tâm trạng hoang mang
giữa mê và ngộ, sinh tử, vô thường, tìm đến gõ cửa Huệ Năng và đặt vấn đề sống
chết lên trên, một vấn đề trọng đại gấp rút, cần phải giải quyết ngay tức khắc
" Sanh tử là việc lớn, vô thường mau chóng lắm " Sanh tử vẫn là chuổi
dài vô tận, vô thường tấn tốc không chờ đợi một ai, khi nó đến chỉ trong một
hơi thở thân mạng không còn. Huyền Giác đưa vấn đề của kiếp nhân sinh ra, và
Huệ Năng đã giải quyết "Sao chẳng nhận cái lý không sinh, thấu rõ cái
nghĩa không chóng" Câu nói nầy như một đòn thí mạng đánh vào tâm thức,
nhưng nhà sư đã thoát hiểm vì may mắn đạt được tâm Phật nhờ bộ kinh Duy Ma,
nhưng phải nhờ Huệ Năng ấn chứng cho.
Lối trở về
Chặng đường tìm về giác ngộ vưọt thoát đã thênh thang,
chỉ cần chúng ta bưóc vào với tâm trạng tha thiết cầu mong, dốc cả tâm huyết
của mình thể nhập vào cái diệu huyền, niềm tin mãnh liệt vào sự giải thoát ngay
trong hiện tại cần phải thực hiện. Lối trở về đầy hoa thơm cỏ lạ, mỗi bước chân
khắc ghi kỳ công, đánh phá trong thẩm sâu của dòng tâm thức một cách liên tục,
thì sự đổ vở ảo tuởng do vô minh chủ động, mới không còn cơ hội tồn tại. Như
hoa đốm ở giữa hư không vốn không thật, vì do con mắt bị nhậm mới sinh ra ảo
tưởng như vậy, khi mắt hết nhậm thì làm gì thấy được hoa đốm.
Sự sanh diệt, phải đánh đổi bằng cái vô sanh vô diệt,
vô thường phải đưọc thay thế bằng cái thường còn bất biến. Cả một kỳ công và cả
một tâm niệm không còn ngự trị, móng dậy của sát na sanh diệt nào, lý lẽ nầy
như một thoại đầu, cần phải nghiền nát thì mới vỡ ra ở kiếp nhân sinh nầy. Nếu
không thì muôn kiếp phải đắm chìm trong khổ não, nổi trôi giữa dòng thác loạn
tạp nhiễm, cái hoang mang ray rức giữa trạng thái mê ngộ, dỡ sống dỡ chết, giữa
cái sinh và vô sinh diệt, một khi không còn vọng động thì chân như hiện diện,
then chốt cuối cùng cần phải ấn mạnh mở tung, nếu không thì sự trở về vẫn còn
là khúc quanh trong cuộc đời.
Sự khác biệt giữa căn cơ và trình độ, không cần thiết
cho sự trực nhận về giác ngộ, ứng dụng vào thực tế mới là điều cấp bách, cứ
việc gõ cửa thì cửa sẽ tự động mở, sự kiên nhẫn và chờ đợi để đưọc mở cửa, đòi
hỏi chúng ta phải biết cách gõ và chờ. Gõ sao cho đúng nhịp, thì âm vang đinh
tai nhức óc của nó, khiến cho vô minh run sợ khiếp viá trong âm hưởng vô tận.
Một khi cánh cửa được mở tung, chúng ta lập tức bước vào ngay không so đo, chùn
bước, đó là cơ hội nghìn vàng, dịp may hiếm có mà suốt cả dòng nhân sinh, chúng
ta mới có cơ may bắt gặp, nếu buông lơi vụt mất cơ hội, thì không biết lúc nào
mới gặp lại. Như chú rùa một mắt biết khi nào mới gặp bộng cây trôi trên biển,
chú rùa vẫn phải lặn hụp trong dòng biển mặn bao la, trong khi khúc cây cứ lững
lờ trôi về nơi vô tận, mặc cho chú rùa gào thét quờ quạng, thẩm sâu của đại
dương là ngôi mộ chôn chặt chú. Chỉ còn lại tiếng gầm thét của biển khơi, của
những đợt sóng tiếp nối.
Làm sao và làm sao vượt thoát? Một câu hỏi gắng liền
với quảng đời còn lại, một công án đánh động ray rức ngay trong hạnh phúc, khổ
đau, hỷ lạc, trong sự say đắm của lý lẽ vô sanh vô diệt. Nếu cái đích cuối cùng
không tóm thâu, thì cả một hành trình không cơ may tồn tại lâu bền. Chư Phật và
Bồ Tát đã thể nhập trọn vẹn vào cái thường còn, nên lúc nào cũng thấy đưọc cái
lẽ vô sanh ở trong cái sanh diệt, cái ngộ trong cái mê, giải thoát trong khổ
đau. Với chúng ta còn mịt mù xa thẳm, thì làm sao và lúc nào mới đến được đầu
nguồn của giải thoát?
Chiếc bè
Khi nào cứ điểm cuối cùng thâu tóm và ngự trị rồi, thì
lúc ấy cả một bình sanh còn lại, không cần dụng công mà vẫn như dụng công, hành
mà vô hành. Chặng đường nào, nếu không khéo dụng công thì chặng đường đó có
muôn lối, lạc buớc rơi vào hố thẳm ngay. Trí tuệ sáng soi, ý lực vượt thoát tử
sanh, đều phải trải qua thử thách cam go, hành giả phải cẩn trọng, dò dẫm từng
bước, đạt được trạng thái liễu ngộ chân tâm, thấy đuợc mặt trời chân như chiếu
rọi, theo đó mới không lạc lối, lúc ấy mới không dọ dẫm nữa, mà phải lao mình
cho thật nhanh đến đích cuối cùng. Nương vào ngộ để đến giải thoát, nương vào
chiếc bè để qua sông, khi qua được bờ kia đừng quên bỏ bè lại cho dòng sông,
đừng vác theo làm gì cho mệt xác, nơm dùng để bắt cá, được cá rồi thì quêm nơm,
hạnh nguyện độ sanh phải lập thệ, đừng an hưởng trong niết bàn chứng đắc.
Hành trang cho ngày trở về phải được chuẩn bị, trăng
thanh đang soi đường, hoa thơm đang chờ đón, hương lạ được kết tinh bằng giải
thoát. Chúng ta chỉ cần lập thệ dấn thân, dụng công liên tục, chắc hẳn ta tìm
thấy được một bình minh tươi sáng, hạnh phúc trong vòng khổ đau, giải thoát
trong vòng ràng buộc. Phải uống trà mới thấy đưọc hương vị ngọt ngào của nó,
trong cái thẩm sâu mênh mang, vượt thoát là tối cần.
|
Đệ tử sang kính chúc Thầy an lạc .
Trả lờiXóaKính Thầy ,nhìn thế gian thật nhiều cảnh muộn phiền ,kẻ được người mất, kẻ khóc người cười...Tham, sân, si luôn hiện hữu trong tâm não ,đến bao giờ mới hết .
Nam Mô A Di Đà Phật
Trả lờiXóaNam Mô Dược Sư Lưu Ly Phật .
Kinh chuc thay than tam + an lac. Nam Mo A Di Da Phat"
Trả lờiXóaTempat bahagia hanya disini selalu dapat jackpot besar : wso288login.com
Trả lờiXóa